Chương 98
***
Rời khỏi Bệnh Mai Quán, Khổng Vô Lộc hồi lâu vẫn chưa thể thoát khỏi cơn hoảng hốt, nhìn con phố Nê Bàn trước mắt đã biến thành một bãi phế tích, hắn chỉ thấy xa lạ khôn cùng. Điều càng khiến lòng người kinh hãi hơn chính là những thi thể được người ta dọn ra từ trong đống đổ nát, xếp ngay hàng chờ ngày đưa đến nghĩa trang.
Mà chỉ mới tảng sáng hôm nay thôi, bọn họ vẫn còn là từng sinh mệnh tươi sống.
Giây phút này, Khổng Vô Lộc như bị dày vò, khó nhọc mở miệng: “Trưởng lão, nếu để công tử biết được…”
Những gì Khổng Vô Lộc nhìn thấy, Vi Huyền tự nhiên cũng nhìn thấy.
Ông dừng bước, thân thể cũng khẽ run rẩy, rồi lập tức siết chặt cây gậy trúc trong tay, đem một thoáng trắc ẩn đè nén xuống, chậm rãi nói: “Cung đã giương không thể thu lại tên. Cho dù có một ngày hắn biết rõ sự thật, nhưng chỉ cần có thể để huyết mạch của Thánh Chủ và Thần Nữ tiếp tục lưu truyền nhân gian, để công tử quay lại Vương thị, nắm giữ Thần Đô, thì dù có giết chết Vi Huyền này, lại có gì đáng tiếc?”
Trong lời nói ấy, Khổng Vô Lộc nghe ra một niềm bi thương cùng quyết tuyệt.
Thế nhưng lúc này, trong đầu hắn lại hiện về không phải là số mệnh hay vinh nhục của bản thân, mà là một ngày xuân từ rất lâu trước đây.
Khổng Vô Lộc vẫn còn nhớ, khi ấy tiết giữa xuân, vừa dứt một trận mưa phùn, cả thành tràn ngập sắc đỏ của đỗ quyên.
Hắn đang phiền não vì chuyện Kiếm Cốt không hề có manh mối, vừa từ Nhược Ngu Đường bước ra, trông thấy một tiểu cô nương với đôi mắt trong sáng, đang đứng bên tấm bảng thông báo trước cửa, mím môi nhìn dòng chữ trên đó, dường như có chút do dự.
Khổng Vô Lộc thuận miệng hỏi: “Muốn đo căn cốt sao? Cứ vào thẳng bên trong là được.”
Tiểu cô nương kia ngẩng mắt nhìn hắn, trong mắt đen trắng phân minh, khẽ cất giọng hỏi: “Thật sự có thể nhận được năm trăm văn tiền ư? Ta muốn mua một chiếc đèn cho mẫu thân.”
Khi ấy, để thu nạp anh tài thiên hạ vào dưới trướng, giới tu hành bất kể là thế gia hay tông môn đều dốc hết mọi cách. Ngoài việc tại các châu phủ khổ công chiêu mộ nhân tài qua học viện, thì tại các trấn thành đều có những điểm kiểm tra căn cốt do bọn họ lập ra. Đặc biệt là Tam đại thế gia, nếu gặp người tới kiểm tra, chẳng những không thu phí mà còn phát tiền thưởng.
Trong đó, Nhược Ngu Đường của Vương thị ở Thục Trung là nơi cho nhiều nhất.
Tận năm trăm văn tiền.
Khổng Vô Lộc dĩ nhiên biết rõ nguyên do, lúc ấy liền cười một tiếng, quay đầu chỉ tấm biển lớn trên cửa: “Đương nhiên có thể rồi. Tiểu cô nương, nhìn cho rõ, đây là Nhược Ngu Đường, Nhược Ngu Đường của Vương thị. Trong giới tu hành, lợi hại nhất chính là Tam đại thế gia Lục – Vương – Tống, mà trong ba nhà ấy, lợi hại nhất lại là Vương thị. Nếu ngươi kiểm tra ra căn cốt không tệ, thậm chí còn có thể được chúng ta chiêu nạp về bồi dưỡng. Đến lúc đó, đừng nói là góp đủ năm trăm văn mua một ngọn đèn, ngay cả muốn mua ngôi sao trên trời, cũng chưa chắc là không thể.”
Tiểu cô nương bèn nhìn tấm biển kia, rồi ngay sau đó, ánh mắt lại rơi về một góc ven đường.
Nơi đó có một gã bán hàng rong, trước mặt bày một cái giá gỗ, trên giá tùy tiện đặt mấy chiếc đèn lồng.
Theo Khổng Vô Lộc thấy, gã bán hàng rong kia chỉ là một kẻ lang bạt ở phố Nê Bàn, bùn đất trên giày còn chưa kịp phủi sạch, mà chiếc đèn khắc trận Minh Quang kia, thoạt nhìn càng không thể tầm thường thô kệch hơn được nữa.
Thế nhưng, trong đáy mắt tiểu cô nương ấy, nó lại tựa như vật sáng rực nhất trần thế.
Đến nỗi, sau một hồi ngắm nhìn, vẻ mặt của tiểu cô nương trái lại bị ánh sáng ấy làm cho thêm phần ảm đạm.
Tiểu cô nương mím chặt môi, cúi đầu mở bàn tay mình ra, đếm đi đếm lại những đồng tiền đồng đã lấm mồ hôi vì bị siết quá chặt.
Rõ ràng, số tiền ấy còn xa mới đủ.
Đếm xong, vẫn đứng nguyên tại chỗ thật lâu, mãi cho đến khi cuối cùng đã hạ quyết tâm, mới nhấc bước đi về phía Nhược Ngu Đường.
Chỉ là thêm một kẻ phàm tục tới đo căn cốt mà thôi, Khổng Vô Lộc đã nghĩ như thế.
Đối với chuyện Kiếm Cốt, hắn gần như đã chẳng còn chút hy vọng nào.
Lúc đó, vốn dĩ hắn nên rời khỏi Nhược Ngu Đường, ra thành xử lý công việc, việc đo căn cốt tự nhiên có người bên dưới đảm đương.
Thế nhưng có lẽ, chính vì sự do dự thật lâu của tiểu cô nương đứng trước cửa, thứ vốn hiếm thấy và mang theo chút đặc biệt nào đó…
Nói tóm lại, hắn chẳng hiểu vì sao lại xoay bước, quay người trở lại trong đường.
Rồi, hắn đã trông thấy một cảnh tượng cả đời khó quên.
Ngay khoảnh khắc tiểu cô nương kia mang theo vài phần bất an, đặt bàn tay mảnh mai lên Ngọc Trắc Linh Cốt, cả tòa Nhược Ngu Đường bỗng dưng như sống dậy. Một luồng uy lực chấn động nhân tâm từ miếng ngọc bùng nổ, lan tràn khắp bốn phía!
Tất cả binh khí trưng bày trong đường đều đồng loạt rung động, phát ra tiếng ong ong!
Ngay cả thanh linh kiếm đã nhận chủ vẫn treo bên hông hắn, cũng như cảm nhận được thứ gì đó đáng sợ, run rẩy không ngừng!
Kiếm là thủ lĩnh của trăm binh, chỉ kẻ mang Kiếm Cốt thiên mệnh, mới có thể khiến trăm binh đồng thanh, vạn kiếm quy tâm!
Khổng Vô Lộc đã quên mất khi ấy lòng mình rốt cuộc là chấn động nhiều hơn, cuồng hỉ nhiều hơn, hay là sau gần hai mươi năm khổ sở tìm kiếm, nay bỗng có được điểm dừng mà trở nên hoảng hốt nhiều hơn…
Điều duy nhất còn nhớ rõ, chính là lúc tiểu cô nương ấy rời đi.
Hắn sai người lấy một túi linh thạch đưa cho nàng: “Thiên phú của ngươi cực kỳ cao, có thể cân nhắc gia nhập Vương thị. Chúng ta sẽ bồi dưỡng ngươi, linh thạch như thế này, muốn bao nhiêu cũng có.”
Nào ngờ tiểu cô nương ấy lại lắc đầu: “Không. Mẫu thân nói, thứ gì không thuộc về mình, lấy đi ắt sẽ mang tai họa. Ta chỉ cần năm trăm văn tiền thôi.”
Khổng Vô Lộc sững lại, dõi mắt nhìn nàng một chốc, trong ánh mắt lóe lên vài tia phức tạp.
Cuối cùng, hắn không nói thêm gì, chỉ thu lại túi linh thạch kia, sai người đổi lấy năm văn văn bạc vụn.
Thật sự quá ít, nhỏ chưa bằng móng tay, mà trong tay một tu sĩ như Khổng Vô Lộc, nó nhẹ như chiếc lông vũ, căn bản chẳng có chút trọng lượng nào.
Hắn tự tay đặt nó vào lòng bàn tay tiểu cô nương.
Nàng thậm chí còn khẽ nói một tiếng cảm ơn.
Cho đến tận hôm nay, cảnh tượng ấy vẫn còn rõ ràng trước mắt: tiểu cô nương cầm lấy năm trăm văn tiền, siết chặt trong tay, quay người ra khỏi Nhược Ngu Đường, bước về phía gã hàng rong bán đèn kia, trên khuôn mặt đã nở nụ cười. Ánh nắng sau mưa xuân rọi lên gò má trắng hồng sáng rực đến chói mắt…
Khi ấy, hắn chỉ đứng trong Nhược Ngu Đường nhìn theo, trong lòng toàn là chí đắc ý mãn, rằng Kiếm Cốt đã có tung tích, công tử sẽ được cứu, chứ chưa từng nghĩ đến, đến một ngày nào đó khi nhớ lại cảnh ấy, hắn sẽ cảm thấy một chút hoang đường, thậm chí áy náy.
Khổng Vô Lộc cúi đầu, chỉ khẽ nói: “Bây giờ nàng là bằng hữu của công tử…”
Vi Huyền lạnh lùng đáp: “Công tử không biết.”
Viền mắt Khổng Vô Lộc đỏ ửng: “Nhưng dẫu không biết, liệu người có chịu chấp nhận sao?”
Vi Huyền liền im lặng. Sau một lúc thật lâu, ông mới ngẩng mắt nhìn về hướng phố Vân Lai, chậm rãi nói: “Đã lay động rồi, phần còn lại chỉ là một ý niệm mà thôi. Huống chi, những thủ đoạn từ huyết mạch nghiệt chủng của Tống Hóa Cực, vẫn chưa đem ra dùng hết đâu…”
Trong Bệnh Mai Quán, những người thương bệnh sau khi uống thuốc, cơ bản đều đã nằm xuống trên chiếu rơm ngủ yên.
Chỉ có trong phòng Vương Thứ, đèn vẫn còn sáng.
Một ngọc phù màu tím sẫm lặng lẽ nằm trên bàn trước mặt hắn, ba ký hiệu “Thiên – Địa – Nhân” chia nhau ở ba đầu ngọc phù, tượng trưng cho quyền uy tối thượng của Vương thị. Chỉ cần bóp nát nó, Vi Huyền và những người khác sẽ lập tức nhận được tín hiệu mà chạy đến.
Hắn cứ ngồi bất động như vậy, đã nhìn nó rất lâu.
Cửa chưa khép.
Nhất Mệnh Tiên Sinh sau khi bắt mạch lần cuối cho bệnh nhân, cầm đèn trở về phòng, vừa hay đi ngang dưới hành lang bên ngoài.
Vương Thứ chớp mắt một cái, bỗng hỏi: “Bọn họ vào đây, sư phụ lại chẳng ngăn cản, chẳng phải là đã nghĩ giống như bọn họ rồi sao?”
Nhất Mệnh Tiên Sinh khựng bước, nhưng không quay đầu.
Ông đứng đó một lát, không trả lời, chỉ khẽ nói: “Trời đã khuya, sớm nghỉ ngơi đi.”
Nói dứt, hạ mắt xuống, bước đi xa dần.
Vương Thứ vẫn ngồi yên bất động, cũng chẳng đóng cửa, chỉ lặng lẽ nhìn bầu trời ngoài kia, từ một mảnh đen kịt, hóa thành một khoảng xanh thẳm tĩnh mịch, cuối cùng dần sáng lên một vệt trắng như bụng cá…
Đêm ấy, Chu Mãn cũng không chợp mắt.
Khi nhận ra bản thân đã bỏ sót một mắt xích vô cùng quan trọng, lâu lắm rồi nàng mới lại cảm thấy cái sự phiêu đãng khi số mệnh chẳng thể do mình nắm giữ, và thế là nhớ về khởi đầu của tất cả…
Ngay khoảnh khắc bước ra khỏi Nhược Ngu Đường, trong lòng nàng tràn ngập niềm vui ngây thơ, thậm chí còn chẳng thèm mặc cả với gã hàng rong kia, đem năm trăm văn vừa có được cùng với một trăm văn mà mình nhọc nhằn dành dụm suốt hai năm góp lại, mua xuống chiếc đèn đã để mắt từ lâu.
Nàng ôm chặt nó, đẩy cửa gỗ mộc mạc mà bước vào nhà, hân hoan đem ra khoe với mẫu thân: “Có chiếc đèn này rồi, từ nay buổi tối sẽ luôn sáng rõ, A nương sẽ chẳng còn lo thiếu dầu đèn mà hỏng mắt khi thêu thùa nữa!”
Không ngờ, mẫu thân vừa đón lấy, sắc mặt lập tức biến đổi.
Bà nắm chặt lấy đôi vai gầy yếu của nàng, giọng nghiêm khắc quát: “Cái đèn này từ đâu ra? Tiểu Kiếm thành cổ?!”
Chu Mãn theo bản năng đáp: “Vâng, con, con mua trong thành…”
Giọng mẫu thân càng gay gắt: “Mua? Tiền đâu? Con lấy đâu ra tiền?”
Từ nhỏ đến lớn, nàng chưa bao giờ thấy mẫu thân nghiêm khắc đến thế. Ngay cả đêm phụ thân rời đi, bà cũng chỉ ôm chặt lấy mắt nàng, dịu dàng vỗ về: “Đừng sợ, A Mãn, đừng sợ, có A nương đây. Phụ thân không thật sự muốn giết con, chỉ là bệnh thôi. Giờ ông ấy đã ngủ rồi, bệnh khỏi rồi, sau này sẽ không sao cả…”
Vậy mà giờ đây, Chu Mãn hoàn toàn bị dọa sợ.
Nàng không biết mình đã sai ở đâu, chỉ tưởng mẫu thân sợ nàng học hư, đi ăn trộm, nên vừa rơi lệ vừa lắc đầu giải thích: “Là con tự để dành, còn có… tiền thưởng khi đi đo căn cốt ở trong thành…”
Khoảnh khắc ấy, người nữ nhân trong bộ váy thô cài bằng gai bỗng như bị sét đánh, thân hình chao đảo lùi lại một bước.
Chiếc đèn tuột tay rơi xuống, vỡ sứt một góc.
Đời trước, ngay cả khi đã bước lên đỉnh Ngọc Hoàng, chưởng quản Kỳ Châu, ngồi giữa minh đường sáng lòa dát đầy lá vàng, Chu Mãn vẫn thường hay nhớ lại cảnh tượng ấy: chiếc đèn rơi xuống đất, vẻ mặt hoảng loạn của mẫu thân, ánh nắng chiếu trên gương mặt nàng khi đi ra khỏi Nhược Ngu Đường, và cả năm trăm văn mà vị chấp sự kia đã đặt vào lòng bàn tay nàng…
Đèn đã tắt.
Nửa ngón chém đứt.
Mẫu thân qua đời.
Kiếm Cốt không còn.
Thiếu nữ Chu Mãn năm ấy làm sao mà biết được, rằng năm trăm văn tiền vừa nhẹ hẫng vừa trĩu nặng ấy, đã là toàn bộ cái giá mà vận mệnh hiểm trở cả đời nàng đáng được định đoạt.
Mà ngay trong giờ khắc này, một âm mưu khác đang lặng lẽ dệt thành…
Thiếu đi mắt xích quan trọng nhất, Chu Mãn chẳng thể ráp nối ra toàn cảnh sự việc, nhưng chỉ cần nhìn từ chuyện Xuân Vũ đan bị tiết lộ, thì nếu quả có bàn tay kẻ đứng sau, đối phương muốn nhắm đến, không nghi ngờ gì, chính là Kim Bất Hoán, là nàng, thậm chí là cả Nê Bồ Tát, mà công cụ bị lợi dụng, tất nhiên chính là Trần gia, hoặc là Tống thị, Lục thị phía sau họ…
Nguy hiểm đang lặng lẽ tới gần.
Chu Mãn nghĩ, bài học duy nhất mà kiếp trước nàng học được, kỳ thực chỉ là chữ “Sát” trong danh tự của vị công tử Thần Đô kia. Nếu không giết người, thì chính mình sẽ bị giết. Cho nên không thể mềm lòng, không thể nhân từ, không thể thoái nhượng, lại càng không thể ngồi chờ chết…
Kiếp này, bất kể là kẻ lộ diện hay ẩn trong màn, nàng đều sẽ giết sạch cho bằng hết.
Trời sáng, bên ngoài vang lên tiếng người trò chuyện.
Nguyên Sách cùng Trương Lai, Lý Khứ đứng dưới mái hiên, nhàn nhạt tán gẫu đôi câu.
Người cao gầy là Trương Lai cứ lẩm bẩm mãi: “Đã sang ngày thứ hai rồi, vị chưởng quỹ của Bách Bảo Lâu kia, dẫu có bò cũng phải bò đến trước mặt Vọng Đế bệ hạ mới phải chứ? Thế mà đến giờ vẫn chưa có động tĩnh gì. Chẳng lẽ là…”
Tên thấp hơn là Lý Khứ tiếp lời: “Ta thấy khó rồi. Vọng Đế bệ hạ tuy tu vi cực cao, từ thời Võ Hoàng còn tại thế đã sớm bước vào Đại Thừa, nay đã gần ba trăm năm, cho dù chưa tới Thiên Nhân cảnh thì hẳn cũng chẳng còn xa. Thế nhưng bao năm qua, bất luận là Tam đại thế gia ngang nhau, hay Bạch Đế thành tru diệt tà ma, chưa từng có chuyện nào khiến ông ta lộ diện. Nghe nói ngay cả khi Võ Hoàng còn sống, trong ‘Tứ Thiền Tứ Tuyệt’ ông ta cũng là người ít động tĩnh nhất, chưa từng cùng ai tranh chấp điều gì. Sau khi Võ Hoàng ngã xuống, ông ta thậm chí chưa từng bước ra khỏi Thục Châu một lần… Huống hồ Trương Nghị sắp tới, tất nhiên càng không muốn mạo hiểm, nhẫn nhịn một thời, đợi sang thu mới tính sổ thì càng ổn thỏa hơn.”
Nguyên Sách cầm bầu rượu uống, lông mày cũng nhíu chặt suy tư.
Nào ngờ, ngay khi ấy, từ trong sảnh lại vang ra một giọng nói trầm tĩnh: “Nhưng nếu… chẳng có cái gọi là thu sau thì sao?”
Nguyên Sách lập tức sững lại, quay đầu nhìn.
Chu Mãn trong bộ áo đen, từ trong sảnh bước ra, ngẩng đầu nhìn về phía bầu trời phương đông. Vệt tử khí lúc mặt trời lên bị nàng thu hết vào đáy mắt, ngưng kết thành một tia sáng, song không khiến ánh nhìn thêm viên mãn, mà trái lại, lại mang theo một sự bình lặng đến… lạnh buốt.
Như băng tuyết tịch liêu giữa đông.
Khi tầm mắt Nguyên Sách chạm phải đôi mắt ấy, trong lòng hắn bất giác run lên, song chưa kịp suy ngẫm, bên ngoài đã vang lên những tiếng bước chân.
Là Tam Biệt tiên sinh dẫn theo Thường Tế cùng các đệ tử của Đỗ Thảo Đường đến.
Hôm nọ, vị lão tiên sinh này chỉ dùng một cây bút gỗ cực âm to bằng cột nhà, trong khoảnh khắc đã đoạt đi tính mạng người khác, để lại trong lòng mọi người ấn tượng vô cùng sâu sắc.
Không ai dám sơ suất, bao gồm cả Chu Mãn, đều cùng nhau khom người hành lễ.
Tam Biệt tiên sinh chỉ phất tay, hỏi: “Kim Bất Hoán đâu?”
Chu Mãn lặng đi một thoáng, mới đáp: “Còn đang ở nghĩa trang, bầu bạn cùng Dư Thiện.”
Tam Biệt tiên sinh cũng trầm ngâm, một lúc lâu sau mới khẽ nói: “Thế thì thôi, không nên quấy rầy hắn nữa.”
Chu Mãn hỏi: “Chẳng hay tiên sinh có việc gì tìm hắn sao?”
Tam Biệt tiên sinh đáp: “Cũng chẳng phải chuyện gì quá khẩn thiết, chỉ là hắn thường ở phố Nê Bàn, ít khi quay về Đỗ Thảo đường. Lần này lại gặp phải việc lớn như thế, ta khó tránh muốn dặn dò đôi lời với hắn mà thôi.”
Chu Mãn mơ hồ cảm thấy có vài phần quái lạ.
Tam Biệt tiên sinh dường như cũng nhìn thấu tâm tư nàng, liền mỉm cười hỏi: “Ngươi cũng đang nghĩ, kẻ có tính tình phóng túng, phóng đãng, chẳng theo quy củ như hắn, sao có thể là đệ tử của Đỗ Thảo đường ta, đúng chăng?”
Chu Mãn khựng lại, song cuối cùng lại khẽ lắc đầu, chậm rãi nói: “Lúc mới quen biết, quả thực có vài phần khó hiểu, nhưng sau đó lại nghĩ, người như hắn… cũng chỉ có thể là đệ tử của Đỗ Thảo đường. Vãn bối chỉ lấy làm lạ, tiên sinh hình như đặc biệt coi trọng hắn.”
Dù là khi trước tự mình đuổi đến cứu người, hay là hiện tại đến tận nơi thăm hỏi…
Tất cả đều cho thấy, vị lão nhân trước mắt này có phần đối xử khác biệt với Kim Bất Hoán.
Nghe xong, Tam Biệt tiên sinh chỉ khẽ thở dài: “Nhưng có ích gì đâu? Dẫu là muốn đem y bát cả đời này truyền cho hắn, thì Đỗ Thảo đường từ xưa đã tin vào thanh khổ, chẳng cầu danh lợi, càng không mưu hưởng thụ. Thế nhưng chí hướng hắn chẳng ở đây, chỉ một mực muốn làm cái gì mà thiên hạ đệ nhất giàu có…”
Chu Mãn lập tức ngẩn người, ngay cả đám Nguyên Sách phía sau cũng đều kinh ngạc không thôi: không phải bởi cái chí hướng ngớ ngẩn của Kim Bất Hoán, mà là bởi ba chữ trong lời nói của Tam Biệt tiên sinh —— “truyền y bát”!
Lại nhìn một lượt đám đệ tử Đỗ Thảo đường đứng sau lưng lão, lấy Thường Tế làm đầu, nghe thấy lời ấy cũng không hề biến sắc, liền biết tâm ý của Tam Biệt tiên sinh, ít nhất trong Đỗ Thảo đường cũng chẳng phải là bí mật gì, mà mọi người đều không có ý phản đối.
Tam Biệt tiên sinh nói xong, lại khẽ bảo: “Mỗi người đều có mệnh số của mình, ngộ được thì là ngộ được, ngộ không ra thì cũng chẳng thể cưỡng cầu. Chỉ cần nhắn lại với hắn, nói rằng ta đã tới, thế là đủ.”
Nói đoạn, ông xoay người định bước đi.
Nhưng ngay lúc ấy, từ chân trời bỗng xa xa truyền đến một tiếng chim kêu dài, Tam Biệt tiên sinh dừng bước, ngẩng đầu nhìn.
Một con Kim Sí Tử Quy ngậm một đóa đỗ quyên, từ giữa không trung thả xuống.
Tam Biệt tiên sinh vươn tay đón lấy, đóa đỗ quyên lập tức bốc cháy, hóa thành một trang thư gấp lại.
Chu Mãn nhìn thấy vị lão giả mở thư đọc, đứng nguyên tại chỗ, vẻ mặt thoáng mang mấy phần phức tạp. Nàng chớp mắt, hỏi: “Là Vọng Đế bệ hạ triệu kiến sao?”
Tam Biệt tiên sinh lúc này mới hoàn hồn, đem tờ thư gấp lại, đáp: “Đúng vậy. Tứ môn ở Thục Trung đều phải đi, có việc cần thương nghị.”
Chu Mãn trầm ngâm một lát, bỗng nói: “Vãn bối có một phong thư, muốn kính dâng Vọng Đế bệ hạ, chẳng hay có thể nhờ tiên sinh chuyển giao giúp chăng?”
Tam Biệt tiên sinh sửng sốt: “Ngươi có thư?”
Chu Mãn gật đầu, rồi nói: “Xin tiên sinh chờ giây lát.”
Trong ánh mắt kinh ngạc của Nguyên Sách và mọi người, nàng quay lại vào sảnh, cầm bút, trên một trang thư phổ thông nhất viết xuống mấy dòng chữ, rồi gấp lại, bỏ vào phong bì, sau đó trở lại trong viện, hai tay cung kính đưa cho Tam Biệt tiên sinh: “Có phiền ngài rồi.”
***