Chương 140: Cô Hoạch Ca (8)
***
Khoảnh khắc nhãn châu đen bay ra, Hải Triều biết đã lệch hướng, sức quá nàng nhỏ, lại trải qua một phen liều mạng giằng co, bàn tay chẳng đủ vững. Nhãn châu vạch thành một đường cong, tựa như cả trái tim nàng cũng theo đó bay ra ngoài, rồi rơi thẳng xuống vực sâu, nước mắt làm nhòe đi tầm nhìn.
Thế nhưng ngay lúc nàng gần như tuyệt vọng, chợt nghe một tiếng “bụp” nặng nề, nhãn châu không sai không lệch, đánh trúng vai phải quái vật. Nó phát ra một tiếng rên khàn, lập tức quẳng đứa nhỏ đang xách trong tay xuống đất đánh “bịch” một tiếng.
Song hiển nhiên nó không định từ bỏ con mồi dễ dàng, đổi sang cánh tay trái còn lành mạnh, vươn ra kéo lấy Lương Dạ đang hôn mê bất tỉnh. Tia hy vọng vừa mới nhen nhóm trong lòng Hải Triều thoắt chốc lại bị dập tắt. Nàng muốn lao tới liều mạng, nhưng vừa chống tay lảo đảo bước được hai bước, cổ chân đã đau thấu tim gan, trước mắt tối sầm, lại ngã nhào xuống đất.
Ngay lúc ấy, trong lùm cây bỗng lóe lên những đốm lửa sao, theo sau là một giọng nam tử vang lên: “Cái gì ở đó vậy?!”
Có người đến rồi! Họ được cứu rồi! Trong lồng ngực Hải Triều như nổi cơn cuồng phong cuốn theo niềm vui sướng. Nàng run lẩy bẩy, dồn hết sức gào lớn: “Cứu mạng! Cứu mạng! Có yêu quái! Yêu quái bắt trẻ con rồi!”
Quái vật quay đầu lại, tuy Hải Triều không nhìn rõ mặt nó, nhưng có thể tưởng tượng được đôi mắt tròn như hạt đậu đen kia đang phát ra tia nhìn hữu hình, khiến nàng vô thức nuốt khan một ngụm nước bọt.
“Cái gì! Ngươi chờ đó, ta đến ngay!” Nam nhân kia kinh hãi, tiếng lá cây xào xạc trong bụi rậm bỗng dồn dập hơn.
Trong khoảnh khắc quái vật cùng Hải Triều giằng co, nó bất ngờ xoay người, quay đầu chạy ngược hướng, lao vọt vào bụi rậm, thoắt cái đã không thấy bóng.
Chẳng bao lâu, nam nhân cũng chạy đến gần, giơ cao bó đuốc, ánh lửa soi rõ gương mặt trẻ trung hiền hòa.
Hải Triều thấy có chút quen, nghĩ kỹ mới nhận ra là vị sư huynh pháp hiệu Đàm Viễn của Trình Hàn Lân.
Đàm Viễn nhìn thấy nàng cũng kinh ngạc: “Ngươi chẳng phải là tiểu đồng mà sư đệ quen biết… Sao không ngoan ngoãn ở Bi Điền Phường ngủ, lại xuất hiện ở đây?” Tựa như nhớ ra lúc này không phải lúc truy cứu, chưa kịp đợi nàng trả lời, hắn liền hỏi tiếp: “Yêu quái đâu?”
Hải Triều: “Yêu quái chạy rồi… Đừng để ý đến nó, bạn ta bị thương, xin sư phụ cứu lấy hắn!”
Lúc này Đàm Viễn mới thấy cách đó không xa còn một đứa trẻ đang nằm trong bụi cỏ. Hắn vội chạy đến, cúi người dò hơi thở của Lương Dạ.
Hải Triều toàn thân căng cứng, bất giác cũng nín thở.
“Đừng lo, tiểu thí chủ này này vẫn còn thở.” Đàm Viễn nói.
Trái tim treo lơ lửng của Hải Triều rốt cuộc cũng hạ xuống, nàng tập tễnh bước tới bên Lương Dạ. Thiếu niên đã hôn mê, gương mặt gầy gò dưới ánh trăng thoáng mang sắc xanh trắng bất tường, hàng mi rậm phủ trên đôi mắt khép chặt, giống như chìm sâu trong giấc ngủ.
“Hắn làm sao lại ngất đi?” Đàm Viễn hỏi.
“Bị yêu quái đánh ngất.” Hải Triều lấy tay chỉ vào sau gáy, “Ra tay rất nặng!”
Vừa nhớ lại cảnh tượng khi ấy sống mũi nàng đã cay xè, nước mắt lại chực trào. Biến thành trẻ con rồi, nàng như lại giống hệt hồi nhỏ, rất hay khóc.
Đàm Viễn nghe vậy cau mày: “Không rõ có nội thương hay không, ta phải đưa hắn về chùa tìm sư thúc chữa trị. Ta đi gọi người đến giúp… nhưng để các ngươi ở đây, lại sợ nguy hiểm…”
Hải Triều nói: “Ngài bế hắn đi, ta có thể tự đi được.”
Đàm Viễn nhìn cổ chân nàng: “Chân ngươi có sao không?”
“Không sao.”
Đàm Viễn đưa tay xoa đầu tóc nàng: “Đúng là một đứa trẻ ngoan.” Nói đoạn, để nàng cầm đuốc, còn hắn thì bế thiếu niên ngang người lên.
Hải Triều nhân lúc hắn không chú ý, nhặt lại viên nhãn châu thạch đen rơi trong bụi cỏ, rồi theo sau Đàm Viễn, đi về hướng tăng xá.
Trong lòng Hải Triều nóng như lửa đốt, khổ nỗi đôi chân chẳng chịu nghe lời, mà Đàm Viễn vì lo cho vết thương của nàng nên cũng cố ý chậm lại bước đi.
“Sao ngươi lại ở bệnh phòng?” Đàm Viễn hỏi.
Hải Triều liếc nhìn Lương Dạ đang nằm trong vòng tay hắn: “Phu nhân Trịnh gia thưởng cho ta bánh ngọt, ta đem đến cho Tiểu Dạ ăn, mệt quá nên ngủ quên mất.”
Trẻ con ham chơi, ngã lăn ra mà ngủ là chuyện thường, Đàm Viễn cũng chẳng lấy làm lạ: “Không ngờ một tiểu hài tử như ngươi mà còn có lòng như vậy.”
“Tiểu Dạ là bằng hữu của ta, mà hắn lại đang bệnh.” Hải Triều đáp.
“Thế con yêu quái kia là chuyện gì?” Đàm Viễn lại hỏi.
Hải Triều bèn kể sơ qua việc nửa đêm yêu quái xông vào phòng, Đàm Viễn nghe mà lắc đầu tặc lưỡi liên hồi: “Tiểu cô nương ngươi gan cũng to thật, không sợ nó bắt cả ngươi đi sao? Sao không chạy đi tìm người lớn cầu cứu?”
Có lẽ chạy ra ngoài gọi người mới là thượng sách, nhưng tình cảnh lúc ấy, cả nàng lẫn Lương Dạ đều chẳng thể bỏ mặc đối phương đối mặt yêu quái một mình.
“Đúng rồi, con yêu quái ấy hình dạng ra sao? Các ngươi có nhìn rõ không?”
Hải Triều khom lưng rụt cổ, vừa làm bộ dạng vừa nói: “Trên mặt nó toàn lông chim đen, mọc cái mỏ nhọn như móc sắt, đầu rụt lại trong cổ.”
Đàm Viễn nghe tới chữ “chim” thì lộ vẻ trầm ngâm: “Ngươi nhìn rõ chứ? Thật sự là mặt chim sao? Hay có ai lấy chuyện yêu điểu ra dọa ngươi…”
Hài tử ở tuổi này thường khó phân rõ thật giả, hắn không tin cũng là điều dễ hiểu.
Hải Triều chớp mắt: “Chuyện yêu điểu gì?”
“Không có gì, toàn chuyện hù dọa trẻ con thôi…”
Hải Triều nói: “Ta nhớ lúc ấy có giật được vài sợi lông trên mặt nó, sư phụ không tin thì cứ tới phòng xem thử.”
Đàm Viễn gật đầu, không nói thêm gì nữa.
Hai người lặng lẽ bước đi, gió mát mùa hạ thổi qua núi rừng ban đêm, bóng cây bóng đá thoắt ẩn thoắt hiện hệt như trong bóng tối có quái vật thò móng vuốt ra. Hải Triều chẳng rõ là vì lạnh hay vì sợ hãi vô cớ, bất giác rùng mình một cái: “Vậy sao sư phụ lại tới bệnh phòng?”
Giọng Đàm Viễn chợt trầm xuống, như biến thành một người khác, từ từ quay đầu lại: “Cuối cùng ngươi cũng phát hiện ra điểm bất thường rồi?”
Hải Triều như rơi vào hầm băng, toàn thân cứng đờ: “Ngươi…”
“Ha ha ha, dọa ngươi sợ rồi à?” Đàm Viễn bỗng phá lên cười vô tâm vô phế.
Hải Triều: …
Đàm Viễn dừng cười, giải thích: “Hôm nay tới lượt ta cùng Đàm Sinh sư huynh đi tuần đêm, tiểu sư đệ nhờ ta đến bệnh phòng xem bệnh hữu của hắn, nên ta mới tới. Không ngờ lại nghe thấy tiếng ngươi kêu cứu.”
Thì ra là Trình Hàn Lân, trong lòng Hải Triều dâng lên một luồng ấm áp: “Đa tạ sư phụ đã cứu giúp, sau này ta còn phải cảm tạ tiểu sư phụ ấy mới được.”
Đàm Viễn “phụt” một tiếng bật cười: “Mấy đứa nhỏ các ngươi sao nói chuyện đều trang trọng như người lớn vậy.”
Người nói vô tâm, người nghe lại có ý, Hải Triều sợ để lộ sơ hở, không dám nhiều lời thêm nữa.
May mà tăng xá cách bệnh phòng chẳng xa, hai người đi chưa đầy một khắc đồng hồ, đã thấy ánh đèn mờ mờ trong Phật đường. Đàm Viễn đưa Lương Dạ cùng Hải Triều vào một gian thiền phòng yên tĩnh: “Các ngươi nghỉ tạm ở đây, ta đi bẩm báo sư phụ.” Dứt lời liền vội vã rời đi.
Hải Triều thấy trong phòng có chum nước và chậu đồng, bèn múc nước, nhúng khăn, nhẹ nhàng lau sạch bụi bẩn và máu trên mặt cùng tay của Lương Dạ.
Chẳng bao lâu, Đàm Viễn dẫn về một vị lão hòa thượng gương mặt khắc khổ, chừng sáu mươi tuổi.
Hải Triều nhận ra ông, ban ngày lúc ra cổng chùa nghênh đón Trịnh gia, chính là vị hòa thượng này dẫn đầu chúng tăng, thì ra vị sư phụ trong miệng Đàm Viễn chính là phương trượng Chiêu Minh tự, Huệ Giác thiền sư.
Lão hòa thượng nhíu mày liếc Hải Triều một cái, chẳng hề để tâm, sải bước đi thẳng tới bên giường, nắm lấy cổ tay gầy mảnh của Lương Dạ bắt mạch.
“Sư phụ, vị tiểu thí chủ này thế nào rồi?” Đàm Viễn vội vàng hỏi.
Lão hòa thượng liếc hắn một cái: “Vẫn là cái tính nôn nóng như thế.”
Ngừng một thoáng, ông buông tay Lương Dạ về lại giường: “Không có gì đáng ngại. Ta viết một tờ thuốc, ngươi đi bốc thuốc, rồi đem cả thuốc lẫn người đưa trả về Bi Điền Phường.”
Đàm Viễn và Hải Triều đều sững sờ.
“Đem họ về ngay bây giờ ư?” Đàm Viễn cẩn thận dò hỏi, “Sư phụ, vị tiểu sư phụ này còn đang hôn mê, thương thế không rõ có biến hóa gì không, chi bằng chờ nó tỉnh lại rồi hẵng…”
Huệ Giác thiền sư bỗng dựng ngược đôi lông mày bạc, nghiêm giọng cắt lời: “Bảo ngươi đưa về thì đưa về, cần gì nhiều lời!”
Đàm Viễn mấp máy môi, cuối cùng vẫn đem lời nuốt xuống bụng: “Đệ tử tuân mệnh.”
Thấy đồ đệ chịu phục, thiền sư mới dịu giọng: “Bi Điền Phường tuy lập trong chùa, chung quy cũng chẳng phải sản nghiệp của chùa. Nếu hai đứa nhỏ này xảy ra chuyện ở đây, ngươi với ta biết lấy gì báo với Trịnh gia? Ngươi vốn không nên mang họ về, trực tiếp đưa về Bi Điền Phường là xong.”
Hải Triều nghe mà ngẩn người. Người ta vẫn nói kẻ xuất gia lòng dạ từ bi, tuy rằng sự thực chưa hẳn như thế, nhưng đây là lần đầu tiên nàng thấy có kẻ ngay cả vỏ bọc từ bi cũng lười khoác lên.
Khó trách đường đường một vị phương trượng, vậy mà chẳng bao dung nổi một tiểu đồ đệ, hở một chút là phạt Trình Hàn Lân gánh phân.
Thiền sư lại dặn dò Đàm Viễn: “Hôm nay thì thôi. Về sau loại chuyện phiền toái này, chớ vội vàng ôm lấy.”
Đàm Viễn thoạt nhìn còn nhiều điều muốn nói, song bị khí thế sư phụ trấn áp, rốt cuộc chẳng dám hé thêm một chữ.
Lão hòa thượng dặn dò xong rồi vung tay áo muốn đi. Tuy Hải Triều chẳng ưa sự lạnh lùng của ông ta, nhưng xét cho cùng, cứu người là ân tình, nàng cũng chẳng tiện oán trách, bèn chắp tay hành lễ: “Đa tạ thiền sư cứu mạng.”
Lão hòa thượng liếc nàng bằng nửa con mắt, môi mím chặt, từ mũi hừ ra một tiếng, bộ dạng hệt như nàng đang thiếu nợ ông tám trăm quan tiền.
Đàm Viễn vội đuổi theo: “Sư phụ, chuyện Cô Hoạch Điểu kia…”
Lão hòa thượng thô bạo ngắt lời: “Ở đâu ra Cô Hoạch Điểu, tiểu hài tử hồ ngôn loạn ngữ, ngươi đường đường là một người trưởng thành cũng tin bậy?!”
“Nhưng mà…”
Câu còn chưa kịp nói hết, lão hòa thượng đã sải bước lớn rời đi.
Đợi sư phụ đi khỏi, Đàm Viễn gãi đầu cười gượng: “Tính khí sư phụ vốn là như vậy, lời lẽ thẳng thừng, nhưng bụng dạ thì tốt… Đêm nay các ngươi cứ ở đây, chờ vị tiểu thí chủ này lại rồi ta sẽ đưa về.”
Hải Triều kinh ngạc: “Nhưng vừa rồi phương trượng rõ ràng nói…”
“Sư phụ đâu có rảnh quản nhiều thế!” Đàm Viễn nháy mắt với nàng, “Các ngươi cứ lặng lẽ ở đây là được.”
Trong lòng Hải Triều dâng lên cảm kích: “Đa tạ Đàm Viễn sư huynh.”
Đàm Viễn cười lộ cả răng lợi: “Khách sáo gì! Ngươi đã gọi ta là sư huynh, chẳng lẽ ta lại không chăm lo cho các ngươi đôi chút.”
“Con yêu điểu kia… tên gọi là Cô Hoạch Điểu phải không?” Hải Triều hỏi.
“Lời này không thể nói bừa.” Đàm Viễn giật mình, “Ngươi coi như chưa từng nghe thấy.”
“Nhưng mà chúng ta rõ ràng đã thấy yêu quái rồi.” Hải Triều nói, “Không tin thì huynh cứ đến bệnh phòng xem, lông chim vẫn còn đó! Vì sao phương trượng lại chẳng chịu tin ta?”
“Phương trượng ấy mà… thôi, nói với một tiểu hài tử như ngươi cũng không hiểu được đâu.” Đàm Viễn đáp.
“Vậy nếu con yêu quái ấy lại đến bắt chúng ta, hoặc đi bắt những đứa trẻ khác thì sao?”
Đàm Viễn nghĩ một hồi: “Sau khi ngươi trở về, hãy đem những gì vừa nói với ta kể nguyên vẹn lại cho Quách thích chủ nghe, nàng ấy tự khắc sẽ có tính toán.”
Hải Triều chợt hiểu, Huệ Giác thiền sư hiển nhiên là không muốn nhúng tay vào bùn nước, mà Quách nương tử lại trông coi Bi Điền Phường, nếu có trẻ trong phường gặp nạn, nàng ta tất nhiên sẽ cân nhắc có nên bẩm báo cho Trịnh gia hay không.
Vừa nghĩ đến những vòng vo rắc rối trong chuyện này, đầu óc Hải Triều lại nặng nề choáng váng.
“Dù sao đi nữa, các ngươi cứ tìm Quách thí chủ mà bẩm, chớ nhiều lời với Liêu mụ mụ, nhớ kỹ rồi chứ?” Đàm Viễn dặn.
Hải Triều gật đầu.
Đàm Viễn lại đưa tay vò vò mấy lọn tóc tán loạn của nàng: “Ngoan, ta đi sắc thuốc đây.”
Hai người bèn nghỉ lại trong thiền phòng một đêm, Hải Triều không dám ngủ say, một tay nắm lấy tay Lương Dạ, một tay thò vào trong áo, lặng lẽ siết chặt viên nhãn châu đen trong lòng bàn tay.
May mà nửa đêm bình yên vô sự.
Đàm Viễn cho Lương Dạ uống hai thang thuốc, đến khi trời vừa hửng sáng, cơn sốt cao của hắn cũng lui, người cũng tỉnh lại.
Đàm Viễn thở phào nhẹ nhõm, chẳng tiện giữ họ lại nữa, bèn cùng sư huynh đưa cả hai trở về Bi Điền Phường.
Lúc này trong Bi Điền Phường bọn trẻ đang thức dậy thay áo, Liêu mụ mụ đi tuần tra trong phòng ngủ, phát hiện không thấy bóng dáng Hải Triều, đang chất vấn Lục Uyển Anh, vừa trông thấy Hải Triều thì nổi giận đùng đùng, mà lại thấy cả Lương Dạ vốn nên tĩnh dưỡng trong bệnh phòng, càng tức đến khó kìm nén.
Thấy bà ta sắp phát tác, Đàm Viễn vội cười xòa: “Liêu thí chủ, hai đứa nhỏ này đêm qua bị kinh hãi, vừa khéo để tiểu tăng gặp phải, nên mới tự tiện làm chủ cho chúng nghỉ trong thiền phòng đôi chút, xin thí chủ chớ trách.”
Liêu mụ mụ đành đè nén lửa giận, gượng gạo cười: “Đa tạ tiểu sư phụ, bọn trẻ này chẳng chịu nghe lời, lại để sư phụ vất vả rồi. Cứ giao chúng cho lão thân là được.”
Đàm Viễn lại do dự, chẳng chịu rời đi: “Quách thí chủ đâu?”
“Sư phụ tìm Quách nương tử có chuyện gì?” Liêu mụ mụ hỏi, “Sư phụ có thể nói với lão thân, lão thân sẽ chuyển lời giúp.”
Đàm Viễn: “Không phiền Liêu thí chủ, tiểu tăng xin chờ ở đây cũng được. Không rõ Quách thí chủ khi nào về?”
Mặt Liêu mụ mụ cứng đờ, giọng khô khốc: “Quách nương tử đến hầu hạ bên phu nhân rồi, lão thân cũng không biết khi nào quay lại…”
Lời còn chưa dứt, bỗng nghe “soạt” một tiếng, rèm cửa bị hất tung, một a hoàn mặt mày tái nhợt, thở hồng hộc chạy vào: “Mụ mụ! Quách nương tử gọi bà tới ngay!”
“Xảy ra chuyện gì? Sao lại cuống quýt thế này?” Liêu mụ mụ trách móc.
A hoàn liếc nhìn Đàm Viễn một cái.
Đàm Viễn hiểu ý, nói: “Tiểu tăng sẽ ra ngoài tránh mặt một chút.”
A hoàn lắc đầu: “Sư phụ không cần tránh, việc này xảy ra trong chùa, sớm muộn gì các người cũng phải biết thôi…”
“Có chuyện gì?” Lúc này đến cả Liêu mụ mụ cũng hoảng hốt.
A hoàn đáp: “Thi thể của Lâm Tam Lang trong Phật đường… biến mất rồi.”
“Biến mất?” Đàm Viễn và Liêu mụ mụ đồng thanh hỏi.
A hoàn gật đầu: “Vốn là sáng nay vừa tờ mờ sẽ đưa về Kiến Nghiệp báo quan khám nghiệm, ai ngờ vừa rồi người hầu mở khóa vào thì… thi thể đã chẳng còn…”
Đang nói, bỗng một đứa trẻ hét toáng lên, dọa mọi người nhảy dựng cả lên.
“Làm gì mà la hét om sòm thế!” Liêu mụ mụ quát.
Đứa bé kia lại như không nghe thấy, chỉ tay vào bạn mình: “Máu! Máu! A Thủy chảy máu rồi!”
Liêu mụ mụ vội vàng bước tới, xách đứa bé gái tên “A Thủy” từ trên giường dậy, xoay ra phía sau nhìn.
Trên tấm áo vải thô vàng ố, lốm đốm hiện ra ba giọt máu đỏ thẫm.
***