Mộng hồi Tây Châu – Chương 138

Chương 138: Cô Hoạch Ca (6)

***

Người tới vậy mà lại là tiểu lang quân nhà họ Trịnh. 

Hải Triều nghĩ mãi không thông, rõ ràng có nhiều người canh giữ ở thiền viện nơi Trịnh gia trú ngụ, hắn chỉ là một thiếu niên hơn mười tuổi, sao có thể lặng yên không một tiếng động mà chạy thoát ra đây, lại càng không hiểu vì sao hắn xuất hiện ở Phật đường để thi thể này.

Ngọn đèn lay động chiếu lên gương mặt tuấn tú hãy còn vương nét ngây thơ, trong đôi mắt phượng hẹp dài như nhảy lên hai ngọn lửa nhỏ, không biết vì cớ gì, thoạt nhìn hắn lại có vẻ rất hưng phấn.

Trong khoảnh khắc, dường như hắn phát giác được điều gì, liền dừng bước ngẩng đầu, nhìn về phía pho tượng mà Hải Triều đang ẩn nấp. 

Tim Hải Triều thoáng chấn động, nàng vội thu mình sau tượng, nhưng lập tức nghĩ lại, hắn ở chỗ sáng, nàng ở trong tối, lẽ nào lại nhìn thấy được. Quả nhiên, Trịnh tiểu lang chỉ thoáng liếc qua như vô tình, rồi lại thu ánh mắt về.

Hắn bước đến trước thi thể Lâm Tam Lang, đặt chiếc đèn lồng xuống bên chân, ngồi xổm xuống đối diện với Hải Triều, cẩn thận vén tấm vải trắng phủ trên xác. 

Hải Triều vốn tưởng hắn sẽ kinh hoảng, đừng nói là trẻ con, ngay cả người trưởng thành bình thường khi thấy thi thể kinh khủng như thế này cũng khó tránh sợ hãi thất thố. Nhưng Trịnh tiểu lang quân chẳng phải hạng người thường, trên mặt hắn chẳng có lấy một nét hoảng sợ, mà hứng thú trong mắt lại càng thêm nồng đậm.

Hắn dùng bàn tay trái sạch sẽ vuốt cằm, tay phải gạt đi vết thương nát bét trên gò má thi thể, thậm chí còn cạy hàm răng ra xem xét bên trong. 

Nơi Hải Triều ẩn náu cách đó không xa, toàn bộ đều thu hết vào mắt. Nàng rõ ràng nhìn thấy hắn dùng ngón tay vạch môi hư nát của thi thể, da đầu tê dại từng hồi.

“Kỳ lạ thật.” Trịnh tiểu lang vừa đụng vào vết thương trên má, vừa như tự nói với mình, “Vết thương này khá chỉnh tề, không giống dã thú cắn…”

Hải Triều càng thấy quái dị, những động tác của hắn khiến nàng bất giác nhớ tới dáng vẻ Lương Dạ khi khám nghiệm tử thi, lẽ nào sở thích của Trịnh tiểu lang lại là làm ngỗ tác?

Nàng còn đang nghĩ ngợi, chợt thấy hắn cẩn thận cởi bỏ y phục trên thi thể. Lâm Tam Lang mặc bộ vải thô đồng nhất của Bi Điền Phường, nhiều chỗ đã bị dã thú xé rách thành từng mảnh, loang lổ máu cùng bùn đất, không còn nhìn rõ màu sắc ban đầu.

Nhưng Hải Triều lại thấy trên tay áo có ba giọt máu trong truyền thuyết. Sau khi Trịnh tiểu lang cởi bỏ y phục, hắn khẽ khàng chạm lên thân thể đã nát bấy của đứa trẻ đáng thương, từ đầu đến chân và dừng lại thật lâu ở vết thương và chỗ gãy lìa. Trong mắt hắn ánh lửa càng lúc càng bừng sáng.

Không rõ đã qua bao lâu, hắn mới kéo lại y phục, buộc thắt lưng, rồi cẩn thận phủ tấm vải trắng như cũ, lấy khăn tay lau sạch máu dính trên bàn tay. Hải Triều len lén thở phào, chỉ mong hắn nhanh chóng rời đi để nàng cũng có thể lén lút chuồn ra ngoài.

Nhưng dường như hắn nghe thấu tâm tư nàng, gấp gọn chiếc khăn dơ cất vào tay áo, đứng thẳng dậy, xách đèn lồng chậm rãi bước đến cửa. Một chân đã nhấc lên muốn bước qua bậc thềm…

Tim Hải Triều gần như trở về chỗ cũ trong lồng ngực, thì ngay khoảnh khắc ấy, Trịnh tiểu lang bất thình lình thu chân lại, đột ngột quay đầu, nhìn thẳng về phía Phật đài.

Trong thoáng chốc, máu trong người Hải Triều như đông cứng. Trên Phật đài vốn có hai ngọn đèn trường minh, đặt hai bên tượng Phật, ai nhìn cũng rõ ràng, nay lại khuyết mất một ngọn.

Quả nhiên Trịnh tiểu lang lộ ra vẻ trầm ngâm, kế đó chậm rãi bước về phía Phật đài. Sau lưng Hải Triều lạnh toát, tim đập như trống dồn, gần như có thể nghe rõ tiếng máu cuồn cuộn trong tai.

Trịnh tiểu lang nhón chân sờ thử vào chỗ vốn đặt đèn, rồi xem đầu ngón tay. Hải Triều lập tức hiểu, hắn đang dò xem có bụi hay không, hẳn đã đoán ra nơi này từng có người ghé qua, chỉ mong hắn đừng ngờ vực trong Phật đường lúc này vẫn còn kẻ khác hiện diện.

Phật tổ phù hộ, Bồ Tát phù hộ… Hải Triều liên tục niệm “A di đà Phật” trong lòng. Nhưng ôm chân Phật lúc này hiển nhiên vô ích, Phật tổ Bồ Tát chẳng màng tới nàng bởi vì Trịnh tiểu lang xách đèn lồng, bắt đầu lục soát trong Phật đường.

Trước tiên kiểm tra dưới Phật đài vốn che màn gấm, sau đó là sau lưng tượng Phật, rồi đến cả tượng La Hán… Từng động tác thong thả, chậm rãi, tựa như lão ngư ung dung kéo lưới.

Trái tim Hải Triều như muốn nhảy lên tận cổ họng, nàng lo hắn chỉ cần dựa vào tiếng tim đập dồn dập này thôi cũng phát hiện ra nàng mất.

Điềm xấu lại linh ứng, vừa thoáng nghĩ thế, thiếu niên kia quả nhiên đã bước thẳng về góc tối nơi nàng đang ẩn mình…

Trong lòng Hải Triều tính toán thật nhanh, nếu bất đắc dĩ chỉ có thể lấy nửa lá bùa ẩn thân của Trình Hàn Lân dán lên trán mà chạy trốn… Ngay sau đó nàng liền phủ quyết kế hoạch ấy. Phù của Trình Hàn Lân chẳng thể khiến nàng biến mất, Trịnh tiểu lang vẫn sẽ nhìn thấy y phục của nàng bay ra ngoài. May mắn thì hắn tưởng là quỷ hồn, bị nàng dọa sợ mà lùi lại, nhưng Trịnh tiểu lang vốn chẳng phải người thường, đến thi thể kinh hồn như thế mà hắn cũng không cau mày lấy một cái, chưa chắc đã sợ một tiểu quỷ, trái lại còn hứng thú bừng bừng đuổi theo nàng…

Hải Triều suy nghĩ một lát, càng cảm thấy chuyện này rất có khả năng xảy ra, tuy nàng và Trịnh tiểu lang chưa từng quen biết, nhưng không hiểu sao lại có thể mơ hồ đoán được tác phong hành sự của hắn. Dựa vào đôi chân ngắn này của nàng, chắc chắn không thể chạy thoát được thiếu niên kia.

Cởi áo chạy trốn thì sao? Nàng lại nghĩ đến. Cũng không ổn, như vậy tất sẽ phải bỏ lại áo quần trong Phật đường. Hắn nhất định sẽ lục soát được, y phục có thêu số hiệu, mang tới Bi Điền Phường đối chiếu là biết ngay là của nàng, hơn nữa nếu để lại y phục ở đây, ngày mai nàng lấy gì để mặc?

Thế thì chỉ còn cách, trong khoảnh khắc hắn phát hiện ra nàng, lập tức ra tay đánh ngất hắn, rồi nhanh chóng lẻn về Bi Điền Phường, lặng lẽ nằm xuống như chưa từng rời đi. Thế nhưng nghĩ thôi đã biết mạo hiểm quá lớn. Chưa nói đến sức lực của nàng bây giờ liệu có đủ để đánh ngất một thiếu niên mười mấy tuổi, lỡ không khống chế được lực đạo, chẳng may đánh chết hay làm tàn phế người ta thì sao? Vả lại nếu đối phương không tin có chuyện quỷ quái, lại có người phát hiện nàng lẻn ra ngoài nửa đêm, hai bên vừa đối chiếu là biết ngay là nàng gây chuyện, lúc đó hoặc bị đuổi ra ngoài, hoặc bị giam lại, nàng đều chẳng thể tiếp tục truy tra chân tướng.

Còn Lương Dạ nữa, bệnh tình của hắn giờ ra sao, trong núi nếu thật sự có yêu quái chuyên giết hại trẻ con, hắn đã đơn độc lại còn ốm bệnh, liệu có gặp nguy hiểm không?

Lòng Hải Triều rối như tơ vò, nhưng đã chẳng còn bao nhiêu thời gian để nàng do dự. Chỉ chốc lát, Trịnh tiểu lang đã đi đến ngay trước tượng cúng, Hải Triều gần như có thể cảm nhận được làn gió nhè nhẹ hắn mang theo khi di chuyển, ngửi thấy hương liệu đắt tiền trên người hắn hòa lẫn với mùi máu tanh dính trên tay.

Thiếu niên khẽ động cánh mũi, như tự nói một mình: “Sau lưng hình như có thứ gì đó… Là con chuột con ăn vụng dầu đèn chăng… Ta dường như đã ngửi thấy mùi sợ hãi rồi…”

Hỏng bét. 

Mặc kệ! Hải Triều nghiến răng, hạ quyết tâm, đưa mép linh phù lên môi làm ướt rồi dán mạnh lên trán, bàn tay nàng đưa ra từ trong tay áo liền biến mất ngay trước mắt.

Bàn tay gầy gò trắng trẻo của thiếu niên vòng ra sau tượng, đầu ngón tay sắp sửa chạm đến má nàng. Hải Triều hít sâu một hơi, nàng chỉ có một cơ hội, nhất định phải đánh trúng ngay lần đầu. Nàng cắn chặt răng, chuẩn bị thừa lúc hắn không phòng bị mà nắm lấy cánh tay hắn, kéo ngã xuống, rồi ra sức đánh mạnh vào sau gáy khiến hắn ngất đi.

Nhưng ngay khi nàng sắp ra tay, bên ngoài bỗng truyền đến một tiếng gọi: “Tiểu lang quân, ngài ở đâu vậy, tiểu lang quân…”

Thiếu niên bỗng thu tay lại, khẽ thở dài: “Thật không đúng lúc, có người đến tìm ta rồi. Hôm nay không rảnh đùa với con chuột con này, ngày mai ta sẽ nghĩ cách tìm ra ngươi vậy.”

Giọng hắn mềm mại tròn trịa, âm cuối hơi nhếch lên, nghe như rất vui vẻ, song lại khiến người ta không rét mà run.

Trịnh tiểu lang dứt khoát xoay người, bước nhanh vượt qua bậc thềm đi ra khỏi Phật đường. Tiếng guốc gỗ “cộc cộc” trên hành lang dần xa.

Hải Triều ngồi phịch xuống đất, thở dốc từng ngụm, lau mồ hôi lạnh trên trán, mãi mới khiến tim đập bình ổn lại. Nàng vịn tường từ từ đứng lên, xoa đôi chân còn run rẩy bước ra ngoài, đặt lại đèn trên đài, rồi lại len lén trèo ra khỏi Phật đường bằng cửa sổ như cũ.

Nàng không dám gỡ lá bùa trên trán xuống, lập tức chạy nhanh nhất có thể về phía bệnh phòng. Đêm nay không sao không trăng, bóng tối trong núi dày đặc như mực, khác hẳn vùng biển rộng thoáng, hệt như có quái vật ẩn nấp có thể nhảy ra nuốt chửng nàng bất cứ lúc nào.

Hải Triều từ nhỏ đã sợ bóng tối, nhưng một lòng chỉ nghĩ tới việc tìm Lương Dạ, thành ra chẳng kịp để ý đến sợ hãi, tựa như phía trước nơi không nhìn thấy có một ngọn đèn đang chờ nàng.

May mắn thay thân thể nàng nhỏ bé, khom người len lỏi trong bụi cây khó ai phát hiện, thỉnh thoảng gặp một hai tăng nhân tuần đêm hay gia nô Trịnh gia, chưa đợi họ nhìn rõ thì nàng đã như một cơn gió vút qua, khiến bọn họ chỉ ngỡ là hoa mắt mà thôi.

Lương Dạ ngủ chẳng yên ổn, qua một ngày, bệnh chẳng những không giảm, dường như còn nặng thêm, sau lưng lạnh buốt, từng khe xương đều nhói đau vô cùng. Đan dược của Lục Uyển Anh xưa nay vẫn hiệu nghiệm, lần này vô dụng phần nhiều là bởi bí cảnh này ép hắn phải bệnh.

Tuy là tiết đầu hạ, song đêm trong núi vẫn lạnh lẽo như nước, huống hồ ban ngày vừa đổ một trận mưa, chăn đệm mỏng ẩm càng thêm âm lạnh. Thỉnh thoảng hắn nghe ngoài cửa sổ có tiếng cành khô gãy, hoặc tiếng gì đó vội vã chạy qua, tim liền thắt lại cứ ngỡ là bước chân Hải Triều. Nhưng mỗi lần đều không phải nàng, những âm thanh tiếng động kia hoặc là ảo giác của hắn, hoặc là thú nhỏ trong núi đi ngang mà phát ra.

Trong bí cảnh tràn ngập nguy hiểm khắp nơi này, Hải Triều lại biến thành một hài đồng, sao có thể lén lút qua mặt người khác mà tìm đến hắn? Hắn mong được thấy nàng, nhưng lại chẳng muốn nàng liều mạng đến, huống chi nàng từ nhỏ vốn sợ bóng tối, đêm núi không sao không trăng đen đặc đến mức giơ tay chẳng thấy ngón.

“Ngủ đi, nàng sẽ không đến đâu.” Hắn tự nhủ, vừa an lòng, lại vừa dâng lên một chút mất mát đến ngay cả chính mình cũng hổ thẹn.

Ngay khi ấy, hắn lại nghe thấy một nhịp bước quen thuộc. Lương Dạ chấn động, lập tức tỉnh táo, nín thở nghiêng tai lắng nghe, nào ngờ âm thanh kia lại biến mất. Hắn day day huyệt thái dương, chẳng lẽ bệnh đến hồ đồ rồi?

Đang ngẫm nghĩ, chợt từ cửa sổ trên cao truyền xuống một giọng trẻ con: “Tiểu Dạ, ngủ rồi sao?” Chưa đợi hắn trả lời, đã có một bóng đen từ cửa sổ chui vào, “ầm” một tiếng nhảy xuống đất, chạy thẳng đến chỗ hắn.

“Sao nàng lại tới đây?” Vừa mở miệng, hắn mới phát giác giọng nói của mình vì niềm vui quá lớn mà run rẩy không kiềm chế được. 

“Còn chưa ngủ sao? Giờ nào rồi mà…” Hải Triều ngồi xuống bên cạnh, thắp bùa Quang Minh từ trong tay áo, đặt bàn tay nhỏ bé lên trán hắn, “Sao nóng thế này! Thế này không được, phải tìm đại phu thôi…” 

“Không sao.” Lương Dạ nắm chặt tay nàng, “Ngủ một giấc là ổn. Ngoài kia tối om, nàng làm sao qua được? Không sợ sao? Tay thật lạnh…” 

“Đúng rồi, có ai đưa cơm tối cho ngươi không? Ăn được chút gì chưa? Đói bụng không?”

“Có người mang cơm tới nhưng ta không đói.” Lương Dạ nói dối, thực ra chẳng ai đưa cơm. Trong chùa, tăng nhân bận rộn đón tiếp Trịnh gia, lại còn đi tìm đứa trẻ tích, e rằng đã quên một cô nhi đang bệnh như hắn.

Hải Triều lấy từ lòng ra một gói điểm tâm bọc trong khăn: “Bọn họ đưa cơm chắc chẳng ngon lành gì. Đây là bánh Trịnh nương tử ban cho, bên trong có thêm sữa bò, ăn vào sẽ có sức. Ngươi cố ăn một chút đi.”

Tuy nửa ngày Lương Dạ chưa chạm hạt cơm nào, dạ dày tựa nhét đầy đá lạnh, nhưng lại chẳng có khẩu vị. Lúc này hắn cố ngồi dậy, từ tay nàng nhận lấy miếng bánh còn vương hơi ấm. 

Hắn cắn một miếng.

“Thế nào?” Trong mắt Hải Triều phản chiếu ánh sáng, rực rỡ như minh nguyệt. 

“Rất ngọt.” Lương Dạ đáp. 

“Vậy thì tốt.” Đôi mắt nàng cong như vầng trăng non, “Ngươi ăn nhiều một chút.”

Lương Dạ dồn hết sức mới ăn xong một miếng, bèn hỏi: “Đã tìm được đứa bé mất tích chưa?” 

Hải Triều gật đầu, kể sơ lược chuyện ban ngày. Vốn muốn nói cả chuyện quái dị trong Phật đường khi nãy, nhưng thấy vẻ mặt hắn mệt mỏi, sợ hắn nghe rồi lo thêm, liền bảo: “Ngươi ngủ trước đi, dưỡng tinh thần rồi ta sẽ nói.”

Lương Dạ lắc đầu: “Những gì nàng tra được cứ nói hết, rồi mau chóng trở về.” 

“Ta không về.” Hải Triều quả quyết.

“Nàng…” Lương Dạ một thời chẳng biết nói gì, “Ta sẽ truyền bệnh cho nàng đấy.” 

Hải Triều buồn bực đến bật cười, ấn hắn nằm xuống giường: “Thử xem bệnh khí của ngươi mạnh hay ta mạnh.”

Nói xong chẳng thêm lời nào, nàng kéo tung chăn mỏng chui vào. “Hừ, chăn này mỏng thật đấy lại còn ẩm nữa, đắp cũng như không.” 

Chưa đợi Lương Dạ cất tiếng, nàng đã quay người ôm lấy hắn: “Thế này thì không lạnh nữa rồi.”

Toàn thân Lương Dạ bỗng nhiên cứng đờ, sau đó không ngăn nổi run rẩy, hắn vẫn cố xoay mặt sang, muốn tránh xa nàng ra, song…

Đôi cánh tay ngắn ngủn của nàng ghì chặt lấy eo hắn, còn nhấc một chân gác lên người hắn: “Ngủ cho ngoan, bệnh rồi mà còn không yên!”

Thân thể nhỏ bé của nàng như một đốm lửa ấm áp thiêu đốt, bao bọc lấy hắn, xua tan đi từng cơn lạnh buốt toàn thân. Cơ thể như có sức nặng ngàn cân đè lên, lúc này hắn mới nhận ra bản thân mỏi mệt đến dường nào, như lữ khách đường dài rã rời cuối cùng về đến cố hương. Mi mắt trĩu nặng, ý thức chìm dần vào bóng tối, nhưng lần này bóng tối lại thật ấm áp, thật dễ chịu, chẳng hề mang theo nỗi hoảng hốt nào.

Hải Triều cảm giác được hơi thở thiếu niên bên cạnh dần dày nặng, trên thân toát ra một lớp mồ hôi mỏng, nàng mới chịu buông hắn ra. Nàng lấy khăn tay lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán hắn, rồi cẩn thận nằm xuống bên cạnh, khẽ nắm lấy tay hắn.

Ngón tay hắn gầy, xương cốt đã lộ ra gồ ghề, lòng bàn tay thì nóng bỏng. Ánh sáng do linh phù tỏa ra lơ lửng bên gối, theo từng nhịp hô hấp nặng nề của thiếu niên mà lúc sáng lúc tối.

Hải Triều mượn ánh sáng ấy chăm chú nhìn hắn, thấy hắn ngủ chẳng an ổn, chân mày hơi nhíu, dù là trong mộng cũng không được thả lỏng. Trong ký ức của nàng, Lương Dạ vẫn luôn là người trầm tĩnh điềm đạm, hiếm khi thấy hắn lộ ra dáng vẻ yếu ớt như vậy, khiến đầu quả tim nàng vừa chua xót vừa mềm nhũn, một lúc lâu chẳng tài nào chợp mắt được.

Không biết có phải do thân thể biến nhỏ hay không, mà những ký ức xưa cũ chôn sâu trong lòng cũng theo cảm giác thân thể mà kéo đến.

Nàng nhớ tới khi còn nhỏ, nàng và Lương Dạ từng chẳng mấy gần gũi. Từ bé tính tình Lương Dạ đã u ám ít lời, giống như một đầm nước sâu thẳm không đáy, cùng hắn nói chuyện chẳng khác nào ném đá xuống đầm, ném bao nhiêu đi nữa cũng chỉ “tõm” một tiếng rồi chìm nghỉm, chẳng nổi được bao nhiêu gợn sóng.

Huống chi A Cha A Nương thường ở bên tai nàng nhắc đi nhắc lại: “Phải chơi với Tiểu Dạ nhiều hơn”, “nói chuyện cùng với Tiểu Dạ đi”, “đừng lạnh nhạt với Tiểu Dạ”, “đứa nhỏ Tiểu Dạ này ngoan ngoãn biết chuyện, thật khiến người ta xót thương”… Nàng nghe mãi đến mọc kén trong tai, mà bản tính lại bướng bỉnh phản nghịch, thành ra càng cố ý xa lánh hắn.

Vậy là từ khi nào mới trở nên gần gũi hơn nhỉ? Nàng đã từ lâu không sao nhớ được, mãi cho đến lúc này mới chợt nhớ ra.

Ấy là vào một đêm hè oi nồng, A Nương vừa phe phẩy quạt cho nàng, vừa thủ thỉ cùng A Cha nói chuyện gia đình. Họ cho rằng nàng đã ngủ say, nên nhắc đến chuyện mẹ con nhà họ Lương.

Nàng nghe thấy A Nương hạ thấp giọng nói với A Cha: “Có một việc ta giữ trong lòng nhiều năm rồi, ngay cả chàng ta cũng chưa từng nói qua.” 

A Cha có chút chua chát: “Việc gì mà đến ta nàng cũng phải giấu?” 

A Nương ngập ngừng một chút mới nói: “Dù sao cũng là chuyện nhà người khác, nhắc ra luôn cảm thấy… nhưng Tiểu Dạ đứa nhỏ này thật quá đáng thương, việc ấy đè nén trong lòng ta khó chịu lắm… Ta cũng không biết có phải ta đa tâm không, hay là nói với chàng một chút…”

Nói rồi ngừng một lát: “Hôm đó, đêm A Lương sinh xong Tiểu Dạ, ta nghe thấy tiếng trẻ con khóc, sợ hai mẹ con họ có chuyện, bèn trở dậy đi xem…” 

“Đêm đó nàng có dậy sao? Sao ta chẳng nghe thấy gì…” 

“Chàng ngủ say như chết, nghe thế nào được.” 

“… Hôm ấy rốt cuộc có chuyện gì?” 

“Ta đến nhà họ, đẩy cửa vào, thấy nàng ấy đặt Tiểu Dạ trên đất, chăn quấn bung ra, đứa nhỏ trần truồng nằm trên một lớp chăn mỏng, lúc ấy là giữa ngày đông giá rét, toàn thân đã tím tái cả rồi!”

A gia lặng im một lúc: “Có phải có nguyên do gì chăng?” 

A nương đáp: “Không rõ… Ta hoảng hồn, vội vàng bế đứa nhỏ lên, hỏi A Lương có chuyện gì. Nàng ta nói không sao, trẻ con tè dầm, đang thay quần áo cho nó. Nhưng thế nào cũng không giống là đang thay quần áo cả!”

“Nàng không nói, ta cũng chẳng tiện hỏi nhiều. Đêm hôm ấy ta không dám về, ngồi bên giường trông chừng nàng, bế lấy đứa nhỏ dỗ dành. Một lát sau đứa nhỏ ấm lên đôi chút thì khóc không ngừng… Ta gặng hỏi mới biết, nàng sinh xong đến giờ chưa hề cho bú, đứa nhỏ đói một ngày trời, khóc đến chẳng còn sức, chỉ ‘eng eng eng’ như một con mèo con bú sữa.”

“Đến lúc đó ta cũng nhìn ra, nàng không muốn nuôi đứa nhỏ này, muốn mặc cho nó sống chết thế nào cũng được. Nhưng đó là một sinh mạng! Ta không thể mở to mắt nhìn một đứa trẻ lành lặn cứ thế mà chết đói chết rét. Bèn khuyên nàng rằng: ‘Ta biết một mình nàng nuôi lớn một đứa trẻ không dễ, nàng đừng sợ, chúng ta sẽ giúp nàng. Nếu sau này nàng gặp được người thích hợp, lo ngại mang theo đứa nhỏ sẽ là gánh nặng, có thể giao nó cho chúng ta nuôi.’”

“Nàng nói gì?”

“Nàng ấy nói: ‘A tỷ, tỷ không hiểu đâu…’ rồi òa khóc, khóc rất lâu mới ngừng, nhận lại đứa nhỏ, cho nó ngụm sữa đầu tiên. Từ hôm sau cũng chẳng nhắc lại nữa. Ta nghĩ nàng đã nghĩ thông suốt nên coi như chưa từng xảy ra, để cho qua đi.”

Nói rồi ngừng lại, A Nương thở dài: “Về sau ta vẫn luôn nghĩ, chuyện năm ấy, ta làm vậy rốt cuộc đúng hay sai…”

“Cứu một mạng người, nàng hối hận chăng?” 

“Không hối hận. Tiểu Dạ là một đứa trẻ ngoan… nhưng mà…” 

“Đã không hối hận thì thôi, nàng chẳng làm sai gì cả…”

Hải Triều mơ mơ hồ hồ nghe những lời này, tuy không hoàn toàn hiểu thấu, nhưng cũng nắm rõ được rằng, mẹ của Tiểu Dạ vốn chẳng muốn giữ hắn, ngày hắn mới chào đời suýt chút nữa đã bị bỏ cho chết rét chết đói.

“Tiểu Dạ thật đáng thương.” Nàng nghĩ thầm, “Mình phải đối xử tốt với hắn mới được.”

Từ đó trở đi, mỗi ngày nàng đều đến tìm Lương Dạ, có gì ngon hay vui cũng nhớ san sẻ cho hắn một nửa. A Cha A Nương khen Tiểu Dạ ngoan, đem nàng ra so sánh với hắn, nàng cũng chẳng thấy giận nữa.

Có lần, không biết là ai từ ngoài khơi trở về, cho nàng một mẩu thạch mật, ngày ấy với nàng là vật hiếm có. Nàng cố nhịn thèm, dùng lưng dao chẻ đôi, tự ăn nửa nhỏ, giữ lại nửa to cho Lương Dạ.

Nhưng suốt một ngày chẳng thấy bóng hắn, nàng ôm mẩu mật thạch ngon lành ấy, nửa đêm lăn qua lộn lại chẳng ngủ được, nếu không mau đem cho hắn, con sâu thèm thuồng trong bụng sẽ bò ra mất. Thế là nàng vùng dậy, đẩy cửa đi tìm Lương Dạ.

Đêm ấy trăng sáng vằng vặc, vừa ra cửa đã thấy có một người trên bãi cát, đang từ từ đi xuống biển, nước đã ngập đến bắp chân. Xa như vậy vốn chẳng thể nhận rõ là ai, nhưng nàng không hiểu sao lại chắc chắn đó là Tiểu Dạ, chẳng chút do dự mà lao tới.

Khi ấy hắn đã đi rất xa, nước biển dâng đến ngực. 

Hắn giống như mất hồn, nàng gọi thế nào cũng chẳng nghe. Nàng hốt hoảng đuổi theo, một cơn sóng ập tới đánh ngã nàng xuống nước.

Tiểu Dạ lúc này mới dừng bước, vội vàng vớt nàng lên. Người thì được cứu, nhưng cơn sóng ấy cũng cuốn mất nửa mẩu mật thạch quý giá. Nàng ngồi trên bãi cát khóc ròng nửa đêm, Lương Dạ ngồi bên an ủi nửa đêm.

Sau này thế nào quay về, nàng chẳng còn nhớ rõ, chỉ nhớ mình nằm sấp trên tấm lưng gầy yếu của thiếu niên, mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi, nước mắt nước mũi nước dãi dính đầy người hắn.

Nàng quay đầu đã quên chuyện ấy, cũng chưa từng nghĩ vì sao đêm đó hắn lại định bước xuống biển, mãi đến lúc này mới chợt nhớ lại, tim nàng như bị thứ gì nghiền nát.

Đúng lúc ấy, thiếu niên bên cạnh khẽ thì thầm một tiếng: “Hải Triều…” 

Hải Triều xoay người, ôm chặt lấy thân thể nóng hổi của hắn: “Ta ở đây, Tiểu Dạ, ta ở đây.”

*

Tác giả có điều muốn nói:

Mẹ của Tiểu Dạ bởi vì mối oán hận với cha đứa bé mà không thể dành cho con tình thương như một người mẹ bình thường, nên thái độ khá lạnh nhạt. Nhưng nói rằng bà cố ý tra tấn, ngược đãi thì không có, cũng chưa bao giờ để con thiếu ăn thiếu mặc. Chuyện lần bỏ vào rương đen kia là có nguyên do riêng (không phải hoàn toàn do bà chủ ý muốn vậy), còn hai lần khác thì là khi đang bệnh nặng gần như sắp chết, buột miệng nói lời hung ác, chứ không phải thái độ thường ngày. Thực chất, mẹ của Tiểu Dạ cũng là một người bị hại, mang bệnh tâm lý rất nặng, không thể lấy chuẩn mực của người bình thường ra để so đo.

***

Chương tiếp theo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *