Ta là chướng ngại vật của vai ác – Chương 42

Hồi thứ bốn mươi hai

Từ trấn Long Tuyền đến đỉnh Long Tuyền còn mười lăm dặm đường núi, ba người xuất phát muộn nên phải gấp rút lên đường. Lăng Hư Tử ra cửa bất lợi, lòng đầy khó chịu, lại lắc cái mai rùa bói một quẻ, được chỉ một con đường “đại cát đại lợi”, liền bỏ quan đạo không đi, khăng khăng kéo mọi người rẽ vào đường núi nhỏ.

Trong rừng cây cối rậm rạp xanh tươi, nắng vàng xuyên thấu, cảnh sắc quả thực không tồi, linh thú chim muông cư trú cũng nhiều. Chưa đi được hai dặm, Thạch Chân đã giẫm phải một bãi phân trâu rừng, đạo bào của Lăng Hư Tử rách đến ba chỗ, buồn cười nhất là Tiểu Hắc, không biết từ đâu bị một con tiểu linh thử nhảy ra cắn mất một túm lông đuôi. Tiểu Hắc không đề phòng nên để nó chạy thoát, tức đến toàn thân dựng lông.

Chỉ có Vân Tiễn, từ đầu đến cuối không gặp chút xui xẻo nào.

Lăng Hư Tử nghĩ mãi không ra nguyên do, Thạch Chân cũng thấy sự việc có chỗ quái lạ, trong lòng cân nhắc suy đoán: chẳng lẽ năm xưa Mặc Chiêu từng làm chuyện bất chính ở nơi này, nhiều năm trôi qua, nhân quả phản phệ liền ứng trên người hai đồ đệ như nàng và Lăng Hư Tử?

Lăng Hư Tử nghe thấy có lý, lập tức vẽ hai tấm “Chuyển vận phù” dán lên thân hai người một mèo, quả nhiên từ đó hành trình thông thuận, chẳng đầy nửa canh giờ đã tới chân đỉnh Long Tuyền.

Ngẩng mắt trông lên, chỉ thấy đỉnh Long Tuyền như một trụ chống trời, đỉnh núi mờ mịt trong mây khói, ba mặt vách đá dựng đứng như dao chém búa bổ, duy chỉ vách núi phía đông nam có treo một con đường lên trời cheo leo, như một con mãng xà khổng lồ uốn lượn hướng lên trên, xuyên thẳng vào biển mây đỉnh núi. Trên đó còn rải rác không ít du khách leo núi, từ xa trông chẳng khác nào bầy kiến nhỏ.

Năm dặm quanh núi phủ trong một kết giới bảo vệ, ánh trời xanh phản chiếu, thấp thoáng có phù văn bạc trắng phức tạp huy hoàng lóe sáng, như một cái bát khổng lồ úp ngược, khí thế hiển hách.

Vân Tiễn thử thi triển ngự kiếm quyết, quả nhiên vô hiệu, lại nhìn bốn phía địa thế, nói: “Nơi này cách chỗ chúng ta giao chiến với quỷ mặt lớn lần trước không xa, kết giới hôm ấy gặp, hẳn chính là biên giới của trận này.”

Thạch Chân mừng rỡ, báo thù đã có phương hướng, lập tức hăng hái chạy lên núi.

Đường bậc đá dày đặc, lớp lớp chồng chéo, lại hẹp lại trơn, trèo lên vô cùng tốn sức. Thạch Chân cùng Vân Tiễn đi rất nhanh, chẳng mấy chốc đã vượt khỏi dòng người phía trước. Lăng Hư Tử thì hoàn toàn theo không kịp, tay chân cùng bám, mồ hôi tuôn như mưa.

Tiểu Hắc ngồi vắt vẻo trên vai Thạch Chân, nhìn Lăng Hư Tử bị bỏ xa tận đằng sau, thỉnh thoảng lại “meo meo” mấy tiếng, chẳng rõ là cổ vũ hay chế nhạo.

Nửa canh giờ sau, ba người rốt cuộc lên tới lưng chừng núi, ở đây thế núi thoải hơn, có không ít khách leo dừng chân nghỉ ngơi.

Một lão giả tóc mày bạc trắng đang tựa vách đá phe phẩy quạt mo hóng mát, thấy ba người Thạch Chân thì vội vàng đón tới, cười nói: “Ba vị khách quan rốt cuộc cũng tới rồi, lão hủ còn tưởng không kịp nữa cơ.” Chính là chưởng quỹ Tri Vi Các Ôn Cửu Giám.

Thạch Chân còn đang lấy làm lạ sao Ôn Cửu Giám lại ở đây, thì Lăng Hư Tử thở hổn hển bò tới, túm lấy vai Ôn Cửu Giám đòi nước uống. Lúc này Thạch Chân mới thấy bên người Ôn Cửu Giám có một cây trượng trúc tím bóng loáng, trên treo một xâu hồ lô tím.

Ôn Cửu Giám chia cho mỗi người một hồ lô, bên trong là nước suối núi mát lành, uống một ngụm, thanh thấu tâm can, mệt mỏi tiêu tán quá nửa.

Lăng Hư Tử ừng ực uống nửa hồ, thở phào một tiếng, rồi mới nói: “Ôn Cửu Giám là do ta mời đến, chúng ta mới đến nơi này, vẫn nên có người bản địa dẫn đường thì thỏa đáng hơn.”

Thạch Chân chợt hiểu, thì ra Lăng Hư Tử sợ họ bị thiệt nên thuê một hướng đạo địa phương.

Ôn Cửu Giám tuy tuổi đã cao, song chống trượng vẫn bước đi như bay. Dĩ nhiên, chưởng quỹ Tri Vi Các thì sở trường nhất là “không gì không biết, không gì không hay”, dọc đường thao thao bất tuyệt, giảng giải tận tường về những thắng cảnh nổi danh của núi Long Tuyền, như:

Tảng đá này có truyền thuyết gì, vách núi kia có điểm đặc biệt nào, ngọn tùng nọ xuất xứ ra sao, bao nhiêu văn nhân mặc khách từng tới nơi này, để lại thơ phú bút tích, trong núi sản vật những gì, mùi vị thế nào, giá cả bao nhiêu, mua tại Tri Vi Các còn được giá sỉ…

Thạch Chân chỉ thấy như quay về lớp học trung học năm xưa, nghe mà buồn ngủ díp mắt, bèn cắt ngang, hỏi chuyện chính: “Không biết đại điển tế tự ở Miếu Thánh Nữ có quy trình gì, lại có phong tục đặc biệt nào không?”

Ôn Cửu Giám lập tức phấn chấn tinh thần, giọng cũng cao thêm mấy bậc, đáp: “Tế điển hàng tháng của Miếu Thánh Nữ có ba nghi lễ. Đầu tiên là ‘Nghênh thần thỉnh phù’, kế đó ‘Lắng sấm thụ chỉ’, cuối cùng ‘Thừa thiên khải nguyện’.”

“Nghi lễ đầu thỉnh linh phù, chính là ‘Kim Quang Phù’ do Miếu Thánh Nữ chế luyện. Người được phù này, trăm tà không thể xâm nhập, lại có công hiệu ‘nghịch sinh tử, chuyển âm dương’. Có kẻ nằm liệt giường nhiều năm, sau ba ngày được phù thì có thể xuống đất đi lại; có nhà bị quỷ quái quấy nhiễu, được phù quỷ tán tà tiêu, gia đạo hòa thuận; lại có lão độc thân cô quạnh nhiều năm, sau nửa năm có phù đã gặp được giai nhân trời giáng, cầm sắt hòa minh, sinh song thai long phượng.”

Thạch Chân le lưỡi: “Thần kỳ đến thế ư?”

Lăng Hư Tử thốt lên: “Linh phù như vậy, chẳng phải tranh đoạt đến vỡ đầu sao?!”

Ôn Cửu Giám lắc đầu cười: “‘Kim Quang Phù’ mỗi tháng chỉ có một lá, phải ‘tranh phúc’ mới có thể có được.”

Vân Tiễn: “Tranh phúc là gì?”

“Đấu giá khởi điểm, kẻ ra giá cao thì được.”

Thạch Chân và Lăng Hư Tử cùng nhau kéo dài giọng: “Ồ~”

Ôn Cửu Giám vuốt chòm râu dài, lại nói: “Lại nói đến nghi thứ hai ‘Lắng sấm thụ chỉ’, tức là Thánh Nữ ban lời tiên tri, định cát hung, đoán thiên thời.”

Lăng Hư Tử gật đầu: “Chuyện này bần đạo có nghe qua, tháng trước Thánh Nữ tiên tri nhà họ Chu sẽ sinh tà quái, quả nhiên ứng nghiệm.”

Thạch Chân lại chú ý đến vế sau: “Thiên thời cũng đoán được sao?”

“Há chỉ là đoán.” Đôi mắt Ôn Cửu Giám sáng rực, “Lão hủ tận mắt chứng kiến, Thánh Nữ đăng đàn làm pháp, cầu mưa với trời: một phù mây đến, hai phù phong lôi tới, ba phù mưa lớn trút xuống, bốn phù mây tan mưa dứt, thực là thần tích!”

Thạch Chân: “……” Sao nghe kịch bản này quen quá vậy.

Lăng Hư Tử gãi cằm, tặc lưỡi liên hồi.

Vân Tiễn thì thấp giọng lẩm bẩm: “Chẳng qua chỉ là chuyện thường ngày của Khâm Thiên Giám mà thôi.”

Ôn Cửu Giám vẫn chưa dứt ý, dừng chân tu thêm mấy ngụm nước, lại tiếp: “Nghi lễ thứ ba ‘Thừa thiên khải nguyện’, chính là trong đại điển sẽ chọn ra ‘người có thiên mệnh’, vào Khải Nguyện Điện trong Miếu để diện kiến Thánh Nữ, cầu một tâm nguyện. Thánh Nữ sẽ dùng pháp lực vô thượng, thông suốt thần minh trời đất, khiến cho tâm nguyện ấy thành thực.”

Thạch Chân xúc động: “Bất cứ tâm nguyện gì cũng được ư?”

“Tất nhiên!” Ôn Cửu Giám gật đầu lia lịa, “Hoặc cầu trường thọ, hoặc cầu công danh lợi lộc, hoặc cầu con nối dõi, nhân duyên… đều có thể thành. Chỉ là ‘Thừa thiên khải nguyện’ chẳng phải tháng nào cũng có, mà điều kiện chọn ra ‘người có thiên mệnh’ lại vô cùng khắc nghiệt. Theo lão hủ biết, mấy chục năm qua mới chỉ có bốn người được chọn, thật đúng là lông phượng sừng lân!”

Mấy người vừa trò chuyện vừa bước đi, bất tri bất giác đã đến đỉnh núi, trước mắt bỗng rộng mở.

Đỉnh Long Tuyền là một bãi bằng rộng lớn, nhìn quanh chỉ thấy vai chen vai, đầu người san sát, nam nữ già trẻ, thương nhân sĩ tử, đủ hạng tu sĩ đều có mặt, trông hệt như một phiên hội miếu ngày Tết.

Bốn phía quảng trường bị các sạp hàng của thôn dân, thợ săn chen chúc chật kín, bày đầy sản vật núi rừng: trà rừng mới sao, quả dại hình thù kỳ dị, nấm núi đen xanh, nhân sâm rừng mấy chục năm, da thỏ rừng, xác khô kỳ nhông, tiêu bản đầu gấu, dây xích răng sói…

Nhiều nhất vẫn là sạp thủ công, cách năm ba bước lại có một gian, bày bán thứ gọi “Tiểu Kim Quang Phù” dạng mặt dây chuyền. Lấy mảnh trúc khắc thành hình phù nhỏ, dùng kim phấn rẻ tiền vẽ mấy đường mây ngoằn ngoèo, trông xinh xắn tinh xảo, buộc dây tơ đỏ có thể treo bên hông hoặc gói hành lý, một cái chỉ cần năm đồng thông bảo.

Mỗi sạp đều dựng biển gỗ khắc “Thánh Nữ ban phúc”, Ôn Cửu Giám lắc đầu liên tục, nhắc nhở tất cả đều là giả mạo, không có hiệu lực chút nào.

Trái lại Thạch Chân tỏ vẻ thích thú, nghiêm túc chọn một cái hình dáng khá hoàn mỹ, tính mang về treo trên vòng cổ của Tiểu Hắc (mà vòng cổ thì còn chưa mua). Tiểu Hắc hình như chẳng hài lòng, xoay đầu đi tỏ vẻ kháng nghị.

Đi tiếp lên phía trước, là cả một khu chợ ăn uống: bánh bao nhân rau rừng nóng hổi, bánh vừng nướng vừa ra lò, canh dâu tằm ướp lạnh, đậu hũ mềm rắc lạc… Thạch Chân dạo một vòng, trên tay đã có thêm hai cái bánh bao, miệng còn cắn nửa cái bánh nướng, Vân Tiễn thì xách hộ chén canh dâu, Tiểu Hắc chẳng biết ăn trộm thứ gì, ria mép dính mấy hạt vừng.

Lăng Hư Tử thì sà vào một sạp vẽ chân dung tại chỗ. Chủ quán cũng là một phù tu, tự sáng chế một loại phù lục đặc biệt, có thể tức khắc lưu lại hình ảnh trên họa quyển. Một bức “họa ảnh” giá hai trăm thông bảo, vậy mà vẫn rất đông khách, đặc biệt được các tiểu nương tử yêu thích. Lăng Hư Tử nghiên cứu vô cùng say mê.

Ba người đang vui chơi hứng khởi, bỗng nghe trên không ngân lên tiếng chuông vàng, thanh âm hóa thành từng tầng sóng gợn màu vàng khuếch tán ra bốn phía, tức thì cả đỉnh Long Tuyền lặng ngắt như tờ.

Tận cùng quảng trường, tầng tầng mây mù như thác đổ tuôn chảy tan ra, hiển hiện một quần thể kiến trúc nguy nga: ba tầng đại điện, ngói vàng cột biếc, bậc ngọc trắng, kỳ lân giữ cửa, khí tượng trang nghiêm thần thánh.

Sau đại điện, một tòa cự tháp sừng sững vươn tận trời xanh. Tháp hình bát giác, toàn thân sắc đỏ nâu, chất liệu chẳng phải gỗ, chẳng phải gạch, chẳng phải vàng ngọc, bên ngoài khắc đầy những phù văn kỳ dị, dưới mái treo đến mấy trăm cái chuông gió bằng đồng xanh.

Lúc này gió núi thổi mạnh, chuông gió lắc dữ dội, song chẳng phát ra nửa tiếng vang, tựa như mọi thanh âm đều bị ngọn tháp lớn nuốt trọn.

Ôn Cửu Giám hắng giọng, tiếp tục bài thuyết minh: “Tòa tháp này gọi là Thông Thiên Tháp, chính là nơi Thánh Nữ ngày thường cầu nguyện thanh tu. Tháp lấy hồng thiết Đông Cực ở Lam Châu đúc thành, như một chiếc thang nối liền nhân gian và thần linh, càng là thánh vật siêu thoát phàm trần!”

Thạch Chân đưa mắt quét qua, lẩm bẩm: “Cảm giác màu sắc này… chẳng mấy tốt lành.”

Tiếng chuông ngân dài dần dứt, cánh cửa lớn của thánh điện nặng nề mở toang. Hai đội vệ sĩ nối hàng đi ra, đều là tráng hán cao tám thước, mặc áo đen, khoác giáp vảy trắng, đeo chùy hàng ma, trái phải mỗi bên bốn mươi chín người. Đứng vào hàng ngũ xong, đồng thanh hô lớn: “Mời – Thánh – Thị!”

Một luồng kim quang như tên rời dây, từ trong điện bắn vọt ra, cuốn theo luồng khí tức mãnh liệt, thổi dồn khiến áo bào của mọi người phần phật tung bay. Hóa ra là một con chim lớn lông vàng rực rỡ.

Con chim kia thân hình khổng lồ, sải cánh rộng chừng hơn hai trượng, toàn thân phủ lông vũ như dát vàng chảy, dưới ánh dương lấp lóa chói lòa. Khi đáp xuống đất, vuốt nó vang lên thanh âm như kim khí va chạm.

Thạch Chân cùng Vân Tiễn  bất giác trao đổi ánh mắt: tuy sắc màu khác biệt, nhưng cánh vàng của nó lại rất giống cánh đen trên người quỷ mặt lớn.

Trên lưng kim điểu đứng một thiếu nữ, nhiều lắm chỉ mười ba, mười bốn tuổi, toàn thân một bộ váy trắng thuần, tóc đen đội kim quan, chân trần móng đỏ, hai tay giao nhau đặt lên bả vai, cất giọng hô: “Thiên môn đã mở, vạn linh cúi đầu, cung thỉnh thần minh, giáng lâm trần thế!”

Giọng nói thiếu nữ ẩn chứa một vẻ đẹp khó diễn tả, nghe vào tai, khiến tâm trí thêm ba phần thanh tịnh. Tựa như ứng theo lời nàng, đỉnh Thông Thiên Tháp bắn ra một cột kim quang, giao hòa cùng ánh mặt trời, biến hóa thành một vòng cầu vồng trọn vẹn mấy trượng, hào quang lưu chuyển, mây đỏ mờ mịt, cả bầu trời được nhuộm thành cảnh sắc hư ảo như mộng.

Thạch Chân há to miệng: “Ôi chao!”

Cả trường quần chúng đồng loạt quỳ rạp, làm lễ chạm vai, thần sắc thành kính, Ôn Cửu Giám thậm chí còn cảm động đến rơi lệ đầm đìa.

Ba người Thạch Chân chẳng tiện tỏ ra khác biệt, đành cùng nhau ngồi xổm xuống, ngầm trao đổi ánh mắt.

Thạch Chân nghĩ bụng: “Mới một Thánh Thị thôi đã bày ra trận thế thế này, Thánh Nữ ắt hẳn càng thêm lợi hại.” 

Lăng Hư Tử: “Thú vị thay!” 

Vân Tiễn: “Hoa mỹ mà vô thực.” 

Thạch Chân: “……” 

Tiểu Hắc: “Meo!”

Chim vàng vỗ cánh dài kêu vang, dường như là một loại hiệu lệnh báo trước. Thánh Thị thiếu nữ lại cất giọng: “Tranh phúc mở ra. Kim Quang Phù tháng này, khởi giá năm trăm linh thạch!”

Thạch Chân: “Ơ? Bắt đầu đấu giá nhanh vậy sao, ngay cả màn lãnh đạo phát biểu cũng không có ư?”

Trong nháy mắt, tiếng hô giá nổi lên bốn phía, náo động không ngớt, giá liên tiếp leo thang, nhanh chóng từ năm trăm linh thạch vọt lên hai nghìn, đến hơn hai nghìn mới dần lắng xuống, cuối cùng có kẻ chốt một tiếng, định giá thành công ở mức hai nghìn tám trăm linh thạch.

Thánh Thị mời người thắng giá vào thánh điện lĩnh lấy Kim Quang Phù. Lúc này Thạch Chân mới nhìn rõ, hóa ra người đó lại là Chu đại thiện nhân. Vài ngày không gặp, ông ta mặt mày tiều tụy, thân hình còng gập, hơi thở khò khè khó nhọc, được quản gia dìu đỡ mà loạng choạng bước vào trong điện.

Lăng Hư Tử: “Xem ra Chu đại thiện nhân vẫn còn bị trận quỷ ghé thăm lần trước dọa cho hồn vía chưa yên.”

Thạch Chân: “Vậy chẳng phải phù trừ tà của Tam sư huynh… chả có ích gì ư?”

Vân Tiễn chau mày, ánh mắt dán chặt vào kim điểu giữa đài cao, không biết trong lòng đang nghĩ gì.

Tiểu Hắc thì uể oải ngáp một cái, cúi đầu liếm vuốt rửa mặt, bỗng nhiên rùng mình dựng thẳng, ngẩng đầu lao vút đi, chớp mắt đã mất dạng.

Thạch Chân hoảng hốt đuổi theo tìm, vòng vèo một hồi cũng chẳng thấy bóng, hỏi thăm vài người, chỉ nói hình như có thấy một con mèo đen rượt theo một con chuột chui vào bụi rậm.

Thạch Chân đành chịu, mèo bắt chuột vốn là thiên tính, huống chi Tiểu Hắc là Dạ Vũ, sao có thể chịu thiệt. Chơi chán rồi, tự nhiên sẽ quay về.

Qua nửa nén nhang, Chu đại thiện nhân từ trong điện bước ra, so với trước khi vào gần như hai người khác biệt. Sắc mặt hồng hào, sải bước như bay, quản gia thậm chí chẳng đuổi kịp dáng đi mạnh mẽ của ông ta.

Mấy nhà lúc trước “tranh phúc” thất bại thì hối hận không thôi, hận không thể xông lên đoạt Kim Quang Phù về tay.

Kim điểu lần thứ hai giương cánh dài kêu rền, Thánh Thị thiếu nữ giơ cao cánh tay, cất tiếng: “Lắng sấm thụ chỉ!”

Trên trời, cầu vồng bảy sắc xoay chuyển biến ảo, hóa thành một màn sáng khổng lồ ngang trời, phù văn tựa như vô số nòng nọc vàng bơi lượn, tụ thành bốn dòng chữ cổ:

[Kim chương chiếu chín tầng, năm xe trong sớm rỗng, núi ngọc hồng châu tán, cành quế hỏi thiên công.]

Một câu sấm ngữ, quang mang rực rỡ, mang theo uy áp khó tả thành lời. Trên đỉnh núi, chúng nhân xôn xao, kẻ thì thì thầm, người thì bàn luận, sôi nổi phân tích huyền cơ trong lời dự ngôn tháng này.

“Đang— đang— đang— đang.”

Tiếng chuông lại vang, mỗi nhịp càng gấp, mỗi nhịp càng nặng, dư âm dội khắp quần phong, trăm loài chim vỗ cánh tán loạn, cây cối lặng thinh.

Đôi mắt già của Ôn Cửu Giám nua đỏ hoe vì xúc động, vội vàng quỳ sụp kêu lên: “Là bốn mươi chín tiếng chuông Thừa Thiên Kỳ Nguyện! Hôm nay Thánh Nữ sẽ chọn ra một vị ‘thiên mệnh’ nhập Kỳ Nguyện Điện!”

Trên đỉnh núi, biển người đen kịt đồng loạt quỳ xuống, thành tâm cầu nguyện, chỉ mong ánh thần quang của Thánh Nữ rủ xuống một hai phần.

Vân Tiễn thấy tiếng chuông kia dường như có uy lực trấn nhiếp hồn phách, vừa muốn nhắc nhở hai người Thạch Lăng, nào ngờ ngoảnh đầu nhìn, Lăng Hư Tử đã quỳ ngay ngắn tiêu chuẩn, hai tay tạo hình chắp trước ngực, mi mắt khép chặt, môi lẩm bẩm không ngừng: “Ta muốn phát tài ta muốn phát tài ta muốn đại phát tài!”

Thạch Chân thì chẳng chịu quỳ, ngồi xổm kiểu Á Đông, ngón cái chọc vào thái dương, ngón út dựng cao như đôi râu côn trùng, dáng lễ nghi chẳng ra đâu vào đâu, miệng lẩm bẩm: “Ta muốn thấy Tịch Diệu Thánh Kiếm ta muốn thấy Tịch Diệu Thánh Kiếm.”

Vân Tiễn: “……”

Đợi đến khi dư vang tiếng chuông cuối cùng tan đi, trong màn sáng khổng lồ bỗng lóe lên một cột sáng chói, “vù” một tiếng phá không mà ra, lượn mấy vòng giữa tầng mây, rồi bất ngờ, thẳng tắp, không lệch một tấc mà phủ xuống đúng trên người Thạch Chân.

Toàn bộ đỉnh Long Tuyền trong nháy mắt rơi vào tĩnh lặng chết chóc. Vô số ánh mắt nóng bỏng như lửa dồn cả về phía gương mặt Thạch Chân, có mê mang, nghi hoặc, kinh ngạc, có ghen ghét, oán hận, phẫn nộ, sát ý… như vạn lưỡi đao bén nhọn đồng loạt chĩa tới.

Thân thể Vân Tiễn căng thẳng, trong lòng lặng lẽ bấm quyết, chỉ trong khoảnh khắc đã tính ra bốn năm loại kế sách rút lui.

Nào ngờ Thạch Chân lại hoàn toàn không hay biết, gãi gãi đầu đứng dậy, mừng rỡ kêu lên: “À há? Linh nghiệm vậy sao?”

*

Tiểu kịch trường 

Lúc này, Tiểu Hắc đang trong bụi rậm truy bắt linh thử, đã tức đến khói bốc: “Thề bằng danh dự tổ tông nhà mèo của bản gia, hôm nay nhất định phải tóm được con chuột chết tiệt này! Meo meo meo!”

***

Chương tiếp theo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *