Mộng hồi Tây Châu – Chương 6

Chương 6: Tòa nhà ăn thịt người (2)

***

Mãi đến bữa tối, chủ nhân Tô phủ vẫn chưa lộ mặt.

Lý quản sự mời bốn người dùng bữa xong thì sai một tiểu đồng đưa họ đến biệt quán trong hậu viên để nghỉ lại.

Tiểu đồng đó khoảng mười bốn mười lăm tuổi, tên là Lý Cát, là con nuôi của Lý quản sự.

Hải Triều thấy trong vườn có ánh đèn lác đác khắp nơi, bèn hỏi Lý Cát: “Chỗ này có những ai ở vậy?”

Tiểu đồng đáp: “Bẩm tiên cô, trong vườn đều là khách nhân lưu trú.”

Hải Triều hỏi tiếp: “Lang quân nhà các ngươi không có tiểu thiếp à?”

Ở chỗ nàng, từ quan huyện cho đến các hộ giàu, hễ có chút tài sản ruộng đất thì nhà nào chẳng có mấy phòng thiếp.

“Tiên cô nói đùa rồi.” Lý Cát cười, “Lang quân và phu nhân tình cảm thắm thiết, không có lấy một phòng thiếp nào.”

“Lang quân nhà các ngươi đúng là người tốt thật. Vậy hai người họ năm nay bao nhiêu tuổi? Có con cái gì chưa?”

“Lang quân ba mươi lăm, phu nhân thì lớn hơn tiên cô một chút, vẫn chưa có con.”

“Cái phủ lớn thế này, chắc phải có không ít người hầu hạ chứ?”

Lý Cát đảo mắt tính nhẩm: “Chỉ tính riêng người hầu trong phủ cũng đã hai ba chục, cộng thêm mã phu, đầu bếp, tá điền ở điền trang và người làm ở các cửa hiệu, thì còn nhiều hơn nữa.”

Hải Triều “ồ” lên một tiếng, lại hỏi: “Vậy nhiều khách đến thế, đều làm gì ở đây vậy?”

Lý Cát cười khổ: “Có người là lang quân mời đến, cũng có người nghe tin tự tìm đến, toàn là đạo sĩ, phương sĩ, hòa thượng các loại… nhưng phần lớn là bọn giang hồ bịp bợm…”

Nói được nửa câu thì cậu ta ngưng lại, có vẻ chợt nhớ ra mấy người trước mặt đây cũng là đạo sĩ.

Trình Hàn Lân cười ha hả: “Vậy ngươi xem bọn ta có giống bọn lừa đảo không?”

Lý Cát vội vàng chữa lại: “Có những người nhìn là biết chẳng đáng tin, vừa mở miệng đã đòi tiền. Đâu có giống các vị, nhìn vào là biết tiên gia chính đạo. Lý quản sự còn căn dặn kỹ càng, rằng mấy vị là cao nhân đạo trưởng từ đạo quán có tiếng đến, phải hầu hạ cẩn thận chu đáo.”

Nói rồi ngừng một chút: “Vị sa môn đi cùng các vị được sắp xếp ở đại quán phía tây. Bên đó người đông ồn ào, lại sát ao nước, muỗi mòng cũng nhiều.”

Vừa nói, cậu ta vừa rút chìa khóa mở cửa viện: “Đừng nhìn viện đông nhỏ hơn, được cái thanh tĩnh, lại gần chính đường. Nếu có chuyện gấp, cứ đi cửa nhỏ phía tây viện, xuyên qua lối trúc là đến ngay.”

Hải Triều hỏi: “Có thể có chuyện gì gấp chứ?”

Tiểu đồng khựng cười, lúng túng đáp: “Tiểu nhân chỉ là nói… nhỡ đâu mà thôi.”

Viện quả thật không lớn, nhưng được quét dọn rất sạch sẽ nhã nhặn. Giữa sân trồng một cây hoè to tán rộng như lọng, dưới hiên là từng khóm hương thảo tỏa hương dịu nhẹ.

Bên trong tổng cộng có ba phòng, ngoài chính phòng ra còn có hai gian phòng ở phía đông và phía tây.

Chỉ có hành lang phía tây là có treo lồng đèn.

Lý Cát nói: “Tây phòng có một vị phương sĩ đến muộn hơn các vị nửa canh giờ.”

Cậu ta thò đầu nhìn vào trong, thấy không có đèn cũng chẳng nghe động tĩnh gì.

“Chắc vị khách đó đã nghỉ ngơi rồi.” Lý Cát nói, “Hai phòng còn lại, các vị tùy ý lựa chọn. Lang quân nhà ta tính tình hào sảng, các vị cứ coi nơi đây như nhà mình là được.”

Cậu ta giúp mở cửa, châm đèn xong thì rút lui.

Đợi tiếng bước chân tiểu đồng xa dần, bốn người mới tụ lại trong chính phòng, khép cửa lại.

“Huynh có phát hiện gì không, Tử Minh?” Trình Hàn Lân hỏi.

“Có vài điểm đáng ngờ.” Lương Dạ nói, “Trước tiên cứ xem trong túi vải của mọi người có gì.”

Lục Uyển Anh nghe vậy liền mở bọc, bên trong là một bộ ngân châm, một con dao bạc nhỏ dùng để cắt thuốc, cùng một đống bình lọ chai lọ, bên ngoài dán nhãn ghi tên thuốc như “sinh cơ lộ”, “bổ khí hoàn”, “khu tà đan”… ngoài ra còn có vài gói thuốc bọc giấy.

Nàng mở một gói, nhận biết vị thuốc bên trong: “Trầm hương, xích thược, tử tô, mộc thông… đây là trầm hương tán.”

Trình Hàn Lân ngạc nhiên: “Thì ra Lục nương tử am hiểu y lý.”

Lục Uyển Anh khẽ lắc đầu, cẩn thận gói lại: “Chỉ là bệnh lâu ngày thành quen, lúc rảnh đọc mấy quyển y thư, biết chút da lông mà thôi.”

Trình Hàn Lân nói: “Lục nương tử quá khiêm tốn rồi, cô nương đối với những dược liệu này thuộc làu làu, hẳn là đã có nhiều thành tựu lắm.”

Hải Triều cũng tiếp lời: “Lục tỷ tỷ tối qua còn nói là mình chẳng biết gì, thế mà đây không phải là hiểu y thuật lắm sao!”

Lục Uyển Anh như thể vừa làm điều gì sai trái, tay chân luống cuống, vội vàng xua tay phân trần: “Thật chỉ là biết chút hời hợt, đọc chơi giải buồn thôi, ta không giỏi mấy việc này, không hiểu sao lại giao túi thuốc cho ta…”

Thấy nàng sắp xấu hổ đến phát khóc, Hải Triều lại càng không hiểu: “Sao tỷ tỷ cứ luôn nói mình không tốt? Trong mắt ta, tỷ chỗ nào cũng tốt hết. Trình Hàn Lân, ngươi nói có đúng không?”

Trình Hàn Lân sững người, rồi lập tức gật đầu như giã tỏi: “Đúng! Vọng tiểu nương tử nói chí phải, Lục nương tử thật sự không cần quá khiêm nhường.”

Hải Triều nói: “Gọi ta là Hải Triều đi, cái kiểu ‘tiểu nương tử’ này kia nghe cứ ngứa ngáy thế nào ấy.”

Trình Hàn Lân thuận theo: “Hải Triều muội muội.”

Lương Dạ khẽ liếc hắn một cái.

Trình Hàn Lân vỗ trán: “Xem ta này, suýt quên chính sự.”

Hắn vội mở túi vải ra, bên trong là một xấp bùa vàng vẽ bằng chữ điểu triện, một chiếc gương bát quái cũ kỹ, thêm năm sáu lượng bạc và nửa quan tiền đồng.

Trình Hàn Lân cầm chiếc gương bát quái lên, thấy ánh sáng bên trong lấp lánh, mặt gương mơ hồ chảy một tầng ánh xanh nhè nhẹ, như gợn sóng trong hồ sâu.

“Chiếc gương bát quái này hẳn là pháp khí của bần đạo rồi.” Trình Hàn Lân nói, “Chu sa và bùa cũng không phải vật thường, chỉ tiếc tại hạ học thuật nông cạn, không biết vẽ bùa. Giá mà sớm học qua thì hay rồi.”

Lương Dạ: “Thử dùng chữ điểu triện xem.”

“Đúng vậy!” Trình Hàn Lân reo lên, “Sao ta không nghĩ ra!”

Hắn liền lấy một tờ phù vàng, rút bút chu sa cài trên búi tóc ra, ngậm cán bút suy nghĩ hồi lâu, rồi ngượng ngùng gãi đầu: “Ta chỉ nhận mặt được, bảo tự viết thì…”

Lương Dạ dường như đã đoán trước, cầm lấy một đôi đũa, chấm nước trà rồi vẽ một chữ điểu triện lên mặt bàn: “Ta nhớ được mấy chữ.”

Trình Hàn Lân ngạc nhiên: “Đây là chữ ‘phong’ (gió), nét nào cũng đúng cả! Tử Minh học lúc nào thế?”

Lương Dạ nói: “Đã thấy qua thì nhớ đôi chút.”

Trình Hàn Lân há hốc mồm: “Nghe đồn Lương Tử Minh có năng lực nhìn qua là nhớ, ta cứ tưởng là lời đồn dân gian, không ngờ lại thật!”

Hải Triều bĩu môi: “Nói ít thôi, viết nhanh đi, nước sắp khô rồi kìa!”

Lúc này Trình Hàn Lân mới luống cuống cầm bút lên, bắt chước vẽ theo.

Ngay khi đầu bút chạm lên phù, chu sa đỏ lập tức trào ra, tay phải Trình Hàn Lân run lẩy bẩy, nghiến chặt răng, gân xanh nổi lên tận cổ, như dồn hết sức lực mới vẽ xong một lá bùa. Vừa buông bút, hắn đã thở phào: “Mệt chết ta rồi!”

Tấm phù vàng lặng lẽ nằm trên bàn, chữ triện đỏ thắm lờ mờ tỏa sáng.

Hải Triều: “Chữ này là gì thế?”

Trình Hàn Lân thều thào: “Gió…”

Lương Dạ nói: “Thử xem sao.”

Trình Hàn Lân bắt chước dáng đạo sĩ, đưa đuôi bùa chấm vào ngọn lửa đèn.

Tấm bùa lập tức hóa thành tro bụi.

Gần như ngay tức khắc, trong phòng nổi lên một trận gió, ngọn đèn lay lắt, rèm màn phần phật.

Chỉ tiếc mới nổi được một chút, chưa đầy chốc lát thì gió đã dừng.

Hải Triều nói: “Cơn gió này e là thổi không nổi lấy một sợi lông của yêu quái.”

Lục Uyển Anh khẽ ho nhẹ một tiếng.

Trình Hàn Lân ngượng ngùng: “Ngại quá, ngại quá, bần đạo học nghệ chưa tinh.”

Hải Triều rút thanh kiếm gỗ đào của mình ra, sờ lên thân kiếm không sắc, lại vung vẩy vài cái: “Không biết lúc chạm trán yêu quái thì kiếm gỗ này có dùng được không nữa, chẳng bằng dao nhặt ngọc vẫn thuận tay hơn.” Nhưng giờ nàng là đạo sĩ rồi, đeo dao theo người đúng là không ổn cho lắm.

Trình Hàn Lân ghé sát lại nhìn: “Thanh kiếm này của Hải Triều muội muội làm từ gỗ bị sét đánh, có tác dụng trừ tà.”

Hải Triều nhăn mũi: “Cũng còn hơn không.”

Trình Hàn Lân nhìn sang Lương Dạ: “Mà Tử Minh, sao huynh không có pháp khí gì hết?”

“Không sao,” Lương Dạ nói: “Trễ rồi, nghỉ ngơi sớm thôi.”

Thế là bốn người chia phòng, Hải Triều và Lục Uyển Anh ngủ ở chính phòng, hai nam nhân ngủ tại đông phòng.

Lương Dạ bảo Trình Hàn Lân về phòng trước, còn mình thì ở lại.

Lục Uyển Anh nói: “Ta đi lấy ít nước.” Rồi bước ra ngoài.

Trong phòng chỉ còn lại hai người, ánh nến lay lắt, im lặng đối diện.

Hải Triều không nhìn Lương Dạ, ngồi xếp bằng, dùng tay áo cẩn thận lau thanh kiếm gỗ đào của mình.

“Hải Triều.” Lương Dạ gọi nàng một tiếng.

Hải Triều chỉ khẽ nhướng mắt: “Gì thế?”

Lương Dạ mấp máy môi, nhưng không nói gì, mãi sau mới chậm rãi thốt ra: “Đêm nay nhớ chốt kỹ cửa, nằm nguyên trong chăn mà ngủ. Nếu giữa đêm có người gõ cửa, đừng mở. Nếu thật sự có việc, ta sẽ dùng ám hiệu…”

Hải Triều ngắt lời hắn: “Ta không nhớ ám hiệu gì hết.”

Lương Dạ khựng lại: “Trước đây…”

“Không có cái gì là ‘trước đây’ cả. Ai lo thân nấy đi.”

“Hải Triều.” Lương Dạ lại khẽ gọi một tiếng.

“Còn gì muốn nói nữa?” Hải Triều đặt thanh kiếm gỗ đào sang một bên, đứng dậy, “Ta muốn đi ngủ.”

“Ta không biết ba năm qua đã xảy ra chuyện gì.” Lương Dạ nói, “Nhưng lúc này việc cấp bách là phải đồng tâm hiệp lực để rời khỏi đây. Dù thế nào, ta cũng sẽ đưa nàng ra ngoài.”

Hắn ngừng một nhịp: “Chuyện khác, về sau hẵng nói.”

Về sau? Về đâu? Giữa họ còn nơi nào có thể gọi là “về cùng nhau” nữa đâu.

Hải Triều liếc xuống chân hắn, giọng mang theo giễu cợt: “Chỉ với cái dáng đó của ngươi, bản thân còn như tượng đất qua sông, không lôi ta xuống nước đã là tốt lắm rồi.”

“Ta sẽ không làm liên lụy đến nàng.” Lương Dạ nhìn thẳng vào mắt nàng, “Nếu thật sự đến lúc đó, nàng không cần quan tâm đến ta.”

Lương Dạ dường như bẩm sinh đã có cái khí chất này, cùng một câu nói nhưng khi hắn cất lời thì luôn khiến người khác tin tưởng. Dùng lời A nương nàng từng nói thì đó là “trên người có khí chất trầm tĩnh”.

Sau ba năm gặp lại, hắn càng trầm mặc, càng tĩnh lặng, như thể gió mưa nhân thế chẳng thể lay động nổi hắn nữa.

Ba năm đó hẳn là đã có nhiều chuyện xảy ra. Dù hắn không nhớ, thì cuộc đời như dòng nước vẫn mài giũa ra hình hài của hắn như hiện tại.

Hải Triều cười khan khinh bỉ, định nói gì đó cay nghiệt hơn nữa, nhưng môi lại khẽ run rẩy như thể những lời ấy còn chưa kịp bật ra, đã tự đâm nàng rướm máu.

Nàng dời ánh mắt đi: “Có chuyện gì, đừng mong ta giúp.”

“Được.” Lương Dạ đáp ngay, ánh mắt yên lặng dõi theo nàng, ánh nến chập chờn lay động trong đôi mắt trong suốt của hắn.

Hắn như còn muốn nói điều gì nữa, nhưng cuối cùng chỉ cụp mi mắt xuống: “Ta đi đây, nghỉ sớm đi.”

Nói xong hắn đứng dậy, khập khiễng lê chân bị thương ra ngoài, nhẹ nhàng khép cửa.

Hải Triều nghe tiếng ho kìm nén vọng lại từ ngoài cánh cửa, lúc này mới sực nhớ: từ tối qua, giọng hắn đã có vẻ khàn khàn, chắc là dính mưa nên cảm lạnh.

Lương Dạ sinh thiếu tháng, hồi nhỏ thể trạng yếu, còn mắc hen suyễn, đến tận mười tuổi vẫn thấp hơn nàng.

Nàng còn nhớ khi A nương mất không lâu, trong làng gặp nạn thủy phỉ, nàng sợ đến mất ngủ.

Lương Dạ bèn ôm lấy con dao nhặt ngọc mà A nương để lại, cả đêm ngồi bên giường nàng trông chừng.

Sáng hôm sau, nàng bị tiếng ho kìm nén đánh thức, mơ màng mở mắt thì thấy hắn khom người lại, mặt đỏ bừng, thở không ra hơi, nhưng vẫn cố bịt miệng để không làm nàng tỉnh giấc.

Có lẽ chính từ hôm đó, nàng đã ngây ngô quyết định, cả đời này sẽ đối tốt với hắn.

Giờ phút này, tiếng ho ấy lại như âm hồn từ quá khứ vọng về, khiến lòng dạ rối bời, chẳng thể yên.

Liên quan gì đến ngươi chứ, Vọng Hải Triều? Hắn đâu cần ngươi xót thương? Ngươi thật hèn hạ! Trong lòng nàng tự mắng mình một tiếng.

Tiếng ho mỗi lúc một xa, rồi dần biến mất hẳn, Hải Triều mới thở một hơi dài.

***

Chương tiếp theo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *