Chương 36: Ký ức cố nhân
***
Thẩm Nghi Đường biết Trưởng công chúa sẽ tới, nhưng không ngờ bà đến nhanh đến vậy, một đêm cũng không chậm trễ.
Trưởng công chúa đã chịu đích thân ra mặt, chứng tỏ chuyện này vẫn còn xoay chuyển được.
Quả nhiên, từ chính viện có người đến báo, mời nàng sang. Thẩm Nghi Đường rửa mặt chải đầu đơn giản, dắt theo Vân Tụ đến chính sảnh.
Ngoài dự liệu của nàng, Thẩm Chấp Nhu không có mặt, chỉ có Trưởng công chúa ngồi trên ghế vòng, một tay chống trán, dáng vẻ có phần lười nhác.
Thấy nàng đến, Trưởng công chúa mỉm cười: “Thẩm nương tử, ngồi đi.”
Vừa thấy nụ cười thật lòng ấy của Trưởng công chúa, Thẩm Nghi Đường có hơi không quen, ngoan ngoãn thi lễ rồi mới ngồi xuống. Hai người đối diện, Trưởng công chúa chăm chú nhìn nàng, vẻ như đang trầm ngâm điều gì đó.
Bị bà nhìn chằm chằm đến ngượng, Thẩm Nghi Đường đành chủ động lên tiếng: “Trưởng công chúa, chuyện đan dược, ta phải xin lỗi người…”
“Đừng nhắc nữa, cứ coi như chuyện đó chưa từng xảy ra.” Trưởng công chúa cắt lời, giọng không cho phép cãi.
Thẩm Nghi Đường ngoan ngoãn gật đầu, tiếp tục nỗ lực lấy lòng: “Mấy món người ban tặng hôm trước, ta đều rất thích, cảm tạ người đã nghĩ cho ta mà chuẩn bị nhiều thứ quý giá như vậy.”
“Ừ, chuyện nhỏ thôi.” Trưởng công chúa nhìn sâu vào nàng: “Nghe nói ngươi nhịn ăn cả ngày?”
“Đúng vậy.”
“Là giả vờ nhịn chứ gì?”
“…Dạ?”
“Hồi ta còn trẻ, vì muốn phụ hoàng đồng ý gả cho Phò mã, ta cũng bày trò nhịn ăn. Khi ấy ta đã giấu đồ ăn sẵn, một bữa cũng không bỏ, chẳng đói tí nào.” Trưởng công chúa nói ra như đang kể chuyện xưa.
Thẩm Nghi Đường cười ngượng: “Không giấu gì Trưởng công chúa, đúng là ta giả vờ, chỉ muốn dọa phụ thân một phen.”
Trưởng công chúa nói: “Hồi đó ta giả bộ nhịn một ngày rưỡi, phụ hoàng liền nhượng bộ. Nhưng nhìn ngươi đây, có nhịn tới bảy tám ngày thì cũng chẳng lay chuyển được phụ thân ngươi đâu.”
Thẩm Nghi Đường cười gượng: “Tiên đế yêu quý Trưởng công chúa, khiến người người ngưỡng mộ.”
Trưởng công chúa nhìn nàng thêm chốc lát, khẽ thở dài một hơi: “Làm nữ nhi của Thẩm Chấp Nhu, ngươi vất vả rồi.”
“Đa tạ Trưởng công chúa thương xót.” Thẩm Nghi Đường đáp khẽ.
Trưởng công chúa day trán, chậm rãi nói: “Hôn sự giữa ngươi và Nguyên Chiêu đã định rồi, ngày mai bà mối sẽ đến trao thiếp canh, ta sẽ sắp xếp cho các ngươi thành thân sớm.”
Đôi mắt hạnh của Thẩm Nghi Đường bừng sáng rực rỡ.
“Còn nữa, phụ thân ngươi giờ nhìn mặt ngươi chắc cũng khó xử. Đêm nay ngươi thu xếp chút đồ đạc, sáng mai ta sai người đến đón. Trước khi thành thân, ngươi cứ ở tại phủ công chúa.” Ánh mắt Trưởng công chúa lướt từ gương mặt nhỏ nhắn của nàng xuống dưới xương quai xanh, nhẹ giọng nói: “Ta cũng phải bồi bổ cho ngươi một phen.”
*
Lá rau dền xanh đậm nằm xếp lớp trong thứ nước canh đỏ tía, những tép tỏi trắng nõn nhuộm thành hồng nhạt, mấy sắc màu rực rỡ chen chúc trong chiếc đĩa sứ trắng ngà, trông chẳng khác nào một bức họa, hương thơm thanh khiết pha lẫn chút mùi dại, nổi bật giữa bàn tiệc chay.
“Nguyên Chiêu, nếm thử xem có ngon không.”
Lão nhân mặc áo vải thô, tóc bạc râu bạc như tuyết, hai mắt hơi sụp xuống, giấu trong từng nếp nhăn lượn như sóng nước. Lúc nói, ánh mắt tinh anh lóe lên từ đôi mí xệ.
Lão thái phó từng là trọng thần triều đình, nay tuy đã quy ẩn sơn lâm, nhưng khí chất vẫn phi phàm như xưa.
Dưới mái hiên lợp tranh, Yến Nguyên Chiêu ngồi ngay ngắn trước chiếc bàn đá, thân hình tao nhã hòa hợp với gió suối, trúc thông nơi sơn cốc. Hắn nể mặt gắp một đũa rau dền thật lớn, không do dự bỏ vào miệng, nhai kỹ rồi nuốt xuống, tán thưởng: “Thanh mát ngon miệng, mềm mà không nát, rau dền do Thái phó tự tay vun trồng, khác hẳn rau dền chốn kinh thành hay cung đình, mang mùi vị riêng biệt.”
Thái phó bật cười: “Ngươi thích là tốt rồi. Trước kia mấy lần đến Ấp Sơn đều không gặp lúc rau dền chín mùa hè, lần này cuối cùng cũng đúng dịp. Ta còn nhớ năm đó mẫu thân ngươi tới, ta cũng đãi bằng rau dền núi. Nàng ăn không quen mà cố nuốt, cái mặt nhăn đến nỗi suýt khóc.”
“Chẳng bao lâu sau bụng nàng khó chịu, làm phụ thân ngươi lo lắng phát cuồng. Mấy vị quý nhân trong cung, dạ dày đâu chịu nổi món dân dã.”
Yến Nguyên Chiêu mỉm cười: “Thì ra mẫu thân từng làm trò cười trước mặt tiên sinh.”
Thái phó càng cười rộ, nói: “Minh Xương lớn lên trong cung, ta từng dạy nàng mấy năm, nàng hay trừng mắt nạt ta lắm. Vậy mà sau khi gả cho phụ thân ngươi, lại trở nên ngoan ngoãn hiếm thấy, quả là một vật khắc một vật.”
“Phụ thân quả thực trị được mẫu thân.” Yến Nguyên Chiêu đáp.
Mẫu thân hắn thân phận cao quý, nơi chân đặt đều là cung vàng điện ngọc, khinh thường khói bụi phàm trần, lại càng chẳng màng núi non đồng nội. Nhưng chỉ cần một lời của phụ thân, bà sẽ vui vẻ theo đi, nhấc váy leo núi cũng không oán thán.
Khí độ công chúa kia, hễ gặp phụ thân là tan biến sạch.
Thời nhỏ hắn chọc giận mẫu thân, cũng toàn tìm phụ thân cầu cứu, chưa từng thất bại.
“Ngược lại cũng vậy, Minh Xương ảnh hưởng tới Dực Quân rất lớn. Ngươi còn nhớ tính tình phụ thân ngươi chứ?”
Yến Nguyên Chiêu không cần nghĩ ngợi: “Phụ thân là bậc quân tử ôn hòa, như ngọc mà không lạnh.”
Ai từng biết Yến Dực Quân đều đánh giá như vậy.
Thái phó thở dài: “Ngọc tốt tuy trong suốt, nhưng bên trong lại lạnh. Dực Quân sớm chín chắn, hơn mười tuổi đã nhìn thấu triều đình vẩn đục, nhân gian vô thường. Càng sống chỉn chu mẫu mực, trong lòng càng mong rời xa bụi hồng. Gánh trên vai kỳ vọng của cả họ Yến, mà lại thường nói với ta muốn xuất gia, hoặc học theo đám già chúng ta, ẩn cư núi sâu, đánh cờ gảy đàn, không màng thế sự. Ta mắng, sao được, giang sơn Đại Chu cần nhân tài như hắn, nhưng hắn chỉ lắc đầu than thở.”
“Là Minh Xương xuất hiện, kéo hắn khỏi bờ vực thoát tục kia. Hắn không nguyện vì gia tộc mà dấn thân quan trường, nhưng lại sẵn lòng vì vinh quang của Minh Xương mà bước lên đỉnh cao quyền lực. Một kẻ chí thành lương thiện như hắn nắm giữ hình ngục, đối với dân chúng chính là ân đức to lớn. Hắn không biết đã lật lại bao nhiêu vụ án oan, chỉ tiếc trời không chiều lòng người…”
Thái phó dừng đúng lúc, lấy một tiếng thở dài gói lại nỗi đau khi Yến Dực Quân bị hại bỏ mạng, rồi cười: “Người già hay lắm lời, nhắc tới là kể mãi không xong.”
Yến Nguyên Chiêu khẽ nói: “Tiên sinh kể cho ta nghe chuyện thời trẻ của phụ thân, ta thật lòng cảm kích.”
Hắn chưa từng biết phụ thân mình còn có một mặt như vậy.
Phụ thân dạy hắn lời Thánh nhân, dạy đạo trị quốc an dân, phụng sự triều đình. Dù có dẫn hắn du ngoạn sơn thủy, xây dựng đình viện Thính Sơn, cũng chưa từng lộ ra chút nào ý tứ muốn ẩn thế xa lánh trần tục.
Thái phó trầm giọng: “Những chuyện có thể kể thì còn nhiều lắm. Ví như đám rau dền trên bàn đây, năm đó chính là do Dực Quân và A Vi cùng nhau gieo giống. Lớn rồi héo, héo rồi lại trồng, hết mùa này đến mùa khác, chớp mắt đã hơn hai mươi năm. Lúc lão phu lui về ẩn cư, cũng không nghĩ mình sẽ sống lâu đến vậy. Người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh, A Vi và Dực Quân hai đứa nhỏ này đều đi trước cả, ngay cả Ngọc Khê cũng theo sau… Nói cho cùng, con người sao bì được với cỏ cây…”
Ông lảo đảo đứng dậy, Yến Nguyên Chiêu định đỡ thì bị ông ngăn lại: “Nguyên Chiêu, ngươi ăn nhiều một chút. Lão phu đi nghỉ một lát, dưỡng chút tinh thần, chiều còn cùng ngươi đánh một ván cờ!”
Đồng tử đưa ông về phòng tranh tre, hầu hạ yên giấc rồi mới bước ra giải thích với Yến Nguyên Chiêu: “Tiên sinh dạo này ăn ít, ngủ nhiều, giấc trưa ít nhất cũng phải đủ một canh giờ.”
Yến Nguyên Chiêu gật đầu: “Ta ra ngoài đi dạo một lát, lát nữa sẽ về bầu bạn với tiên sinh.”
Giữa mùa hạ, cỏ cây nơi sơn dã xanh tươi sạch sẽ, không khí ẩm mát, khiến người ta khoan khoái. Yến Nguyên Chiêu dẫn theo Bạch Vũ, vòng qua vườn rau xanh mướt trong viện, đẩy cửa rào tre, lần theo ký ức leo lên mô đất nhỏ ở phía đông.
Trên đồi là một khu rừng sơn đường, cành lá rậm rạp, những phiến lá lớn cỡ bàn tay sáng bóng lấp ló sau tán là những trái cây màu gạch non. Mỗi khi xuân tới, hoa nở trắng như tuyết, hương thơm lan khắp, cảnh sắc khiến người say lòng. Tranh vẽ rừng sơn treo trong thư phòng Yến Nguyên Chiêu cũng chính là cảnh sắc nơi đây do phụ thân chàng từng tự tay vẽ lại.
Hai người băng qua rừng, Bạch Vũ bỗng nhớ ra điều gì: “Lang quân, ta thấy ngài ăn không ít rau dền tiên sinh hái, có sao không? Dạ dày ngài giống Trưởng công chúa, chẳng chịu được mấy món thô đâu.”
“Không sao cả, ta đâu có yếu đuối như thế.” Yến Nguyên Chiêu đáp.
Rừng dần thưa, vòng qua mấy gốc bạch dương thấp, một gò đất nhỏ hiện ra trước mắt.
Đó là phần mộ của cầm sư Ngọc Khê.
Bạch Vũ lấy từ túi vải ra trái cây lễ, cẩn thận bày trước phần mộ, lại lấy ra một xấp giấy tiền vàng mã và nến nhang. Yến Nguyên Chiêu dùng gậy đánh lửa điểm từng nén hương, ba nén hương dài mảnh chầm chậm tỏa khói, uốn lượn vươn lên rồi tan vào mây khói.
Ngọc Khê xuất thân từ sĩ tộc họ Tần, say mê âm luật, không chịu theo học làm quan, từ sớm đã cắt đứt quan hệ với gia tộc, đổi tên lang bạt khắp nơi. Về già cùng bạn cũ Lư Nhai quy ẩn, sống bên nhau nơi Ấp Sơn, sau khi qua đời cũng không trở về tộc phần, mà chọn ngủ yên nơi núi này.
Ông từng có mối quan hệ thầy trò với Yến Dực Quân, mỗi khi Yến Nguyên Chiêu đến Ấp Sơn đều thay phụ thân đến viếng.
Thắp hương xong, lại hóa vàng. Lưỡi lửa đỏ liếm lấy lớp giấy vàng, chỉ chốc lát đã hóa thành tro đen bay tứ tán.
Bên gò đất có một ngôi mộ nhỏ, bên cạnh có bia gỗ khắc rõ tên chủ mộ: “Tần Vi”.
Đó chính là “A Vi” trong lời kể của Lư Thái phó.
Tần Vi là nữ nhi cố Tể tướng Tần Kỳ. Nàng và Yến Dực Quân giống nhau, từng lên Ấp Sơn tìm Ngọc Khê cũng chính là vị thân thích xa để học cầm, là sư tỷ của với Yến Dực Quân.
Yến Nguyên Chiêu chưa từng gặp Tần Vi, nhưng đã nghe phụ thân kể về đoạn đời trắc trở của người.
Tần Kỳ từng nắm đại quyền thời Thái Khang, phạm tội cấu kết ngoại tộc, tham ô hối lộ… bị xử trảm giữa chợ, nam trong nhà bị ban chết, nữ bị sung vào giáo phường. Khi ấy Tần Vi chưa đến hai mươi đã chịu vạ lây, vào giáo phường làm nhạc kỹ, một thân tài cầm học từ Ngọc Khê cũng trở thành công cụ mua vui cho quyền quý.
Bốn năm sau, nàng được ân xá cho phép hoàn lương, nhưng đúng lúc đó lại bị người trong lòng phụ bạc, tuyệt vọng nhảy sông tự tận.
Thi thể nàng chưa bao giờ được tìm thấy. Họ hàng xa có khả năng cũng chẳng ai nguyện nhận, cuối cùng vẫn là Yến Dực Quân cùng hai vị tiên sinh giúp nàng làm lễ chiêu hồn, dựng một ngôi mộ trên Ấp Sơn.
Yến Nguyên Chiêu bước tới trước phần mộ, liếc nhìn Bạch Vũ. Bạch Vũ hiểu ý, lại lấy thêm chút lễ vật và giấy tiền, bày ra trước mộ rồi hóa.
Chủ tử nhà hắn nhân hậu, mỗi lần đều thuận tay tế thêm cho Tần nương tử bạc mệnh ấy một phần.
Đồ lễ hóa xong, Bạch Vũ thu dọn đứng lên, bỗng thấy sắc mặt Yến Nguyên Chiêu khó coi, che miệng, vội hỏi: “Lang quân, ngài sao vậy?”
Yến Nguyên Chiêu không trả lời, bước nhanh mấy bước, tránh xa hai ngôi mộ. Bạch Vũ vội chạy theo, thấy chàng vịn vào một gốc bạch dương, cúi người nôn khan.
Bạch Vũ hốt hoảng kêu lên, vội đưa khăn tay: “Chắc là do rau dền đó! Lang quân, ngài đừng cố gắng quá sức nữa!”
Yến Nguyên Chiêu như không có gì, đứng thẳng lưng dậy, dùng khăn tay lau sạch miệng: “Tấm lòng của Thái phó, sao có thể phụ.”
Hắn nhíu mày nhìn đống chất nôn, bảo Bạch Vũ lấy đất lấp lại. Hai người men theo triền dốc xuống, tìm được một con suối nhỏ, Yến Nguyên Chiêu dùng nước suối súc miệng, rửa mặt sạch sẽ rồi mới quay về phòng tranh của Thái phó.
Chiều đến, đồng tử lấy ra bộ cờ mà Yến Nguyên Chiêu tặng, Lư Thái phó sau khi nghỉ ngơi hồi sức liền cùng chàng đánh một ván cờ bằng quân ngọc, kết quả Yến Nguyên Chiêu đại bại.
Lão nhân vô cùng khoái chí: “Nguyên Chiêu à, không những cờ không tiến bộ, mà còn tụt lùi rồi, hửm?”
Yến Nguyên Chiêu đành bất đắc dĩ thừa nhận: “Vãn bối bình thường ít chơi, đã mai một mất rồi.”
“Còn đàn thì sao, cũng không đánh nữa ư?”
“Không đánh nữa rồi.”
Vừa dứt lời, chàng cũng cảm thấy có chút xấu hổ, cúi đầu dùng đôi tay trắng ngần như bạch ngọc từ tốn gom những quân cờ xanh trắng lẫn lộn lại bỏ vào hộp.
Thái phó khẽ lắc đầu: “Thật đáng tiếc. Ngày trước ta ngày nào cũng nghe Ngọc Khê đánh đàn, nghe đến phát ngán, hận không thể lấy tay bịt tai lại. Ấy vậy mà bao năm qua đi, lại càng thấy nhớ. Ngươi là đồ tôn của Ngọc Khê, lão phu còn trông mong ngươi tái hiện lại tiếng đàn của cố nhân nữa kia!”
Yến Nguyên Chiêu khẽ nói: “Mong tiên sinh lượng thứ, vãn bối dốt nát, năm xưa theo phụ thân học đàn không được bao nhiêu khúc, nếu để vãn bối gảy đàn, e là không phải tái hiện, mà thành vấy bẩn âm thanh cố nhân rồi.”
Thái phó mỉm cười hiền hòa: “Thôi thôi, lão phu cũng không miễn cưỡng! Huống hồ mấy năm nay ngươi làm ngự sử, chân không ngơi nghỉ, làm được không ít việc lớn, lão phu ở tận thâm sơn cũng nghe danh. Năm kia ngươi đi sứ Kiếm Nam, vì dân oan minh giải, dân địa phương còn làm ca tụng đức ngươi. Đông năm ngoái lại dâng tấu buộc tội Lý Thụ, đưa hắn vào ngục thẩm, làm rất tốt!”
“Vãn bối chỉ là người ở vị trí nào, phải làm việc của vị trí ấy, khiến tiên sinh chê cười rồi.” Yến Nguyên Chiêu đáp.
“Ngươi không cần khiêm tốn.” Thái phó nói, “Ghét ác như cừu, không sợ quyền uy, nói thì dễ, làm mới khó. Nhưng mà, ngươi dùng thủ đoạn sấm sét như thế, chắc hẳn khiến Yến Trọng Bình sợ chết khiếp rồi? Giờ ông ta còn tranh giành ngươi với Minh Xương nữa không?”
Yến Nguyên Chiêu cười: “Gần hai năm nay tổ phụ quả thực không còn nhắc đến chuyện bắt ta về Yến gia nữa. Trước đây còn nhắn nhủ ta quá cương thì dễ gãy, khuyên ta học theo sự nhu hòa ôn nhã của phụ thân.”
“Ông ta lo hão thôi. Lão phu biết rõ, ngươi không phải kẻ làm bừa, mà là người biết tiến thối đúng mực. Như đánh cờ vậy, tuy cờ nghệ dở tệ nhưng đường đi không sai, trước tính sau hành, lưu lại đường lui, một bên vây mà bốn bên cứu, đạo làm quan cũng không khác mấy đạo đánh cờ. Theo ta thấy, việc ngươi buộc tội Lý Thụ mà không lôi kéo quá nhiều người khác vào, chính là đã lưu tình rồi.”
Tuy Lư thái phó đã lui về ẩn dật, nhưng “thân ở giang hồ, lòng vẫn lo quân thượng”, đối với tình hình triều chính vẫn nhìn thấu như lòng bàn tay.
Yến Nguyên Chiêu không giấu giếm: “Tiên sinh nói rất đúng. Khi vãn bối thu thập chứng cứ tham ô của Lý Thụ, đã lấy được một cuốn sổ sách then chốt. Trong đó ghi lại hắn nhận hối lộ dưới danh nghĩa Thái tử, chi chít hơn trăm khoản, không chỉ có cống phẩm từ quan lại địa phương mà còn có sự tham dự của không ít triều thần. Thánh thượng còn đang tại vị, nửa triều đình đã bắt đầu kết phe với Thái tử, tranh nhau lấy lòng. Vãn bối cực kỳ chán ghét, nhưng vẫn giấu cuốn sổ ấy, không dâng lên.”
Thái phó thở dài: “Chủ động lấy lòng tân quân, từ xưa đã có, nhưng chưa bao giờ ngang nhiên như thế! Trong đó chắc chắn không thiếu sự cho phép ngầm của Thái tử. Với gió hướng như vậy, có người bợ đỡ để cầu vinh, cũng có kẻ dâng của chỉ để cầu an.”
Yến Nguyên Chiêu gật đầu: “Phải, những cái tên ghi trong sổ, không ít là bậc hiền thần có thực tài trị quốc.”
“Cách làm của ngươi là đúng. Liên lụy đến nhiều thần tử như thế, nếu dâng lên, Thánh thượng cũng khó xử. Nhiều nhất chỉ giơ cao đánh khẽ, hoặc gác sang một bên không hỏi đến, dễ dẫn tới thiên gia lúng túng, Thái tử oán giận, triều thần nghi kỵ, hại nhiều hơn lợi. Huống chi việc này, Thánh thượng tai thính mắt tỏ, tự khắc đã hiểu rõ trong lòng.”
Yến Nguyên Chiêu nói: “Nước quá trong thì không có cá, vãn bối hiểu lý ấy, chỉ là vẫn không khỏi kinh hãi.”
“Đúng vậy, quan trường vốn là vũng nước đục. Nếu tự đặt sự thanh liêm của bản thân lên hàng đầu, thì chỉ có thể cẩn thận dè dặt, tránh bùn không dính, từng bước khó đi. Nhưng lại có người đặt việc công lên trên, vì làm nên đại sự, vì dân sinh phúc lợi mà cam tâm để mình bị vấy chút bùn. Mỗi người một chí hướng, thành tựu cũng khác nhau.” Thái phó nhẹ giọng nói.
Yến Nguyên Chiêu trầm ngâm: “Lời tiên sinh, vãn bối khắc ghi. Nghĩ đến xưa kia những vị hiền thần lương tướng, phần lớn đều là người như tiên sinh vừa nói.”
“Ngươi với ta, đúng là ý hợp tâm đầu!” Thái phó cười to sảng khoái.
Đúng lúc đó, đồng tử bước vào, dọn bàn cờ, dâng lên chén trà thanh. Gió hè ấm áp len qua khe cửa sổ, thổi vào trong phòng. Lão nhân tóc trắng da hồng, nụ cười chan hòa từng trải, lại có vài phần thuần hậu nguyên sơ.
“Còn một chuyện muốn báo với tiên sinh.” Yến Nguyên Chiêu nâng chén, khóe môi lộ ra ý cười sáng sủa, “Ta sắp thành thân rồi.”
***