Hồi thứ năm mươi tư
Người thứ hai mà Thạch Chân đến tra hỏi chuyện mua phù, họ Tống tên Dực, vốn là gia đình nhiều đời buôn bán nhạc cụ, mở đến ba hiệu cầm, tông tộc và thông gia đã sinh sôi năm đời ở trấn Long Tuyền, căn cơ thâm hậu.
Tống Dực năm nay sáu mươi tám, là một bà lão tinh thần quắc thước, đầu bạc trắng xóa, tai thính mắt sáng. Bà khoản đãi Thạch Chân và Vân Tiễn một bữa cơm tối thịnh soạn, thấy Thạch Chân ăn uống ngon lành thì vui vẻ khen nàng là đứa trẻ có phúc khí.
Thạch Chân vừa gặm trái cây vừa xem qua Kim Quang Phù nhà họ Tống, thấy cũng không khác gì phù của nhà họ Chu. Quan sát hồi lâu vẫn chẳng tìm ra manh mối, đành làm theo lệ cũ mà lưu lại ảnh.
Kim Quang Phù của Tống lão bà mua được từ năm năm trước. Nhắc lại chuyện hôm ấy, Tống Dực vẫn nhớ rõ mồn một. Chỉ là, so với dung mạo Thánh Nữ, bà lại mẫn cảm hơn với giọng nói của nàng: “Âm thanh của Thánh Nữ, từng chữ viên mãn, như hạt trân châu lớn nhỏ rơi xuống đĩa ngọc, có thể thông đạt với trời cao.”
Thạch Chân hỏi: “Sau khi Thánh Nữ cất lời, bà có phát hiện bốn phía có gì khác thường không?”
Tống Dực ngẫm nghĩ rồi đáp: “Hồi ấy dưới đất có tiếng loạt xoạt vụn vặt, như côn trùng nhỏ bò qua, nhưng chỉ thoáng chốc thôi.”
Vân Tiễn lại hỏi: “Âm thanh nhỏ như vậy, bà làm sao nghe được?”
Tống Dực cười, chỉ vào tai mình: “Nhà họ Tống ta bao đời chế tác nhạc cụ, quý nhất chính là đôi tai này. Nghe âm phân tiếng, ấy là bản lĩnh tổ truyền.”
Nói đến đây, dường như bà lão chợt có cảm khái, nhấp một ngụm trà, rồi mặt đầy hoài niệm: “Lúc từ biệt Thánh Nữ, bước đi trong hành lang đại điện, ta còn nghe được ca xướng, xa gần bập bềnh, lên xuống bất định, như sợi nước trong suốt óng ánh quấn quanh trời cao, ngân nga vương vấn, càng lúc càng thấp, càng lúc càng nhỏ, sau cùng biến mất tăm. Nghe khúc ca ấy, lỗ chân lông toàn thân đều sảng khoái thư thái, trong người có u uất gì cũng tiêu tan như mây khói. Hẳn chính là thần khúc của tiên nhân chín tầng trời.”
Thạch Chân thầm lấy làm lạ. Chu đại thiện nhân cũng từng nói lúc rời đi nghe được tiên nhạc. Sao riêng nàng lại chẳng hề có ấn tượng về tiếng nhạc nào cả? Chẳng lẽ vì nàng vốn là đá, không có tế bào âm nhạc, nên nghe chẳng thấy?
Thạch Chân lại hỏi nguyên do Tống Dực mua Kim Quang Phù. Tống Dực thở dài: “Hồi nhỏ ta tính tình hiếu động, giấu người nhà cưỡi ngựa rong ruổi. Không ngờ ngựa hoảng, xông vào một ngôi làng ngoài trấn. Khi ấy có một nữ nhân đang kéo nước bên giếng, bị ngựa ta húc ngã xuống. Ngựa lại điên cuồng lao đi mất. Lúc đó tuổi trẻ nông nổi, ta tưởng người kia đã rơi xuống giếng mà chết đuối, cả ngày hoảng hốt, lại vì sợ hãi nên chẳng dám báo quan, càng không dám nhận tội. Về sau mấy chục năm, chuyện ấy hóa thành ác mộng, dằn vặt thân tâm. Trong nhà còn thường xuyên hiện quỷ, chính là hình bóng một nữ nhân, thành dáng thủy quỷ. Ta tự nhận tội nghiệt quá nặng, không nỡ để con cháu trong nhà liên lụy nên ngày ngày đến Miếu Thánh Nữ sám hối, rốt cuộc cầu được Kim Quang Phù để trấn trạch. Khi cầu phù, Thánh Nữ có nói một câu: ‘Cởi chuông phải nhờ người buộc chuông, trở lại chốn cũ, sẽ có phát hiện.’
Mấy chục năm ta chưa từng đặt chân về thôn ấy, nghe lời Thánh Nữ bèn gắng gượng quay lại, vậy mà bên giếng ta lại thấy nữ nhân kia. Đầu đã bạc trắng, tuổi gần cổ lai hi, đang tựa vào giếng hong nắng. Ta kinh hãi vô cùng, vội hỏi bà có phải oán linh trói buộc đất cũ không. Nữ nhân bật cười lớn, nói quả thật từng bị một con ngựa điên húc ngã xuống giếng, nhưng khi đó phản ứng nhanh, nắm kịp dây thừng, tự cứu mà thoát, chẳng hề hấn gì.”
Tống Dực nắm chặt cổ tay, than thở: “Ta vì sợ hãi và tội lỗi mà tự trói buộc mình mấy chục năm, ấy cũng là báo ứng.”
Thạch Chân nghe đến đây càng thêm kinh ngạc: quy trình Thánh Nữ ban Kim Quang Phù, chẳng ngờ lại ẩn chứa vài phần ý vị trị liệu tâm lý.
Thạch Chân lại hỏi: “Khi Thánh Nữ ban phù, có từng nhắc đến phải đổi bằng bảo vật nào không?”
Tống Dực lắc đầu: “Trong nhà ta không có loại bảo vật ấy, Thánh Nữ cũng chưa hề nhắc tới. Nhưng nghe tiên trưởng nói thì ta lại chợt nhớ ra. Ba năm trước có một phú thương họ Hoàng đi ngang qua, trọ ở khách điếm gặp ma quái, cả Hoàng gia kinh hãi đến nửa chết, bèn đến Miếu Thánh Nữ cầu phù. Nghe nói chính tay dâng lên một viên bảo châu, là nước mắt ngàn năm của giao nhân kết lại, gọi là ‘Lệ Ngưng Châu’.”
Khi tiễn ra cửa, Tống Dực chống gậy đi một quãng xa, nhìn Thạch Chân như muốn nói lại thôi, Thạch Chân biết bà còn điều chưa dứt lời nên bảo Vân Tiễn dựng lên một tầng thuẫn mai rùa, vây ba người trong đó, hóa thành một khoảng không gian kín đáo, rồi hỏi Tống Dực còn chuyện gì.
Tống Dực do dự nửa ngày, mới nói: “Hôm ta cầu phù là ngày rằm tháng Giêng năm năm trước. Hôm ấy, Thánh Nữ chọn ra một người được Thiên mệnh chiếu, cho vào điện khấn nguyện. Đó là một cống sinh, đã ngoài bốn mươi. Khi ấy ta chỉ thoáng gặp chẳng để tâm, nhưng cách mấy năm, lại gặp người này ở trấn Long Tuyền, đã đổi dung mạo, khoác gấm bào, chỉ có giọng nói không hề thay đổi.”
Tim Thạch Chân đập thình thịch: “Người đó là ai?”
Giọng Tống Dực hạ thấp: “Tiên úy trấn Long Tuyền Lục Đạm.”
Khi Thạch Chân và Vân Tiễn quay về Ngũ Xa Thư Lâu thì đã gần nửa đêm, suốt một ngày vất vả dò xét, rốt cuộc mới thu được bốn tấm bản sao Kim Quang Phù. Linh Hư Tử chờ đến nỗi đầu bốc khói, vội vàng chồng năm tấm bản sao Kim Quang Phù lên nhau, tỉ mỉ so sánh, song bản sao lại nhỏ đến mức mắt thường khó mà nhận ra. Hắn vòng quanh tại chỗ mấy lượt, chợt nảy ra một ý, lấy năm tấm Thái Hư Phản Chân Phù, đem năm bản sao phóng to gấp mười lần theo tỉ lệ, rồi tiến hành kiểm tra lại.
Đây vốn là một việc cần kỹ thuật tinh xảo, Thạch Chân và Vân Tiễn chẳng giúp gì được, chỉ có thể ngồi một bên chờ đợi, nhân tiện sắp xếp lại những manh mối rời rạc thu được trong ngày.
Ngoài Chu gia và Tống gia, hai hộ phía sau lần lượt mang họ Trình và Quan, quá trình cầu lấy Kim Quang Phù cũng giống như Chu và Tống. Thạch Chân vẽ trên giấy một bảng ma trận tổng hợp manh mối, đem toàn bộ chi tiết ghi chép vào, gạch ra manh mối bất ngờ nhất hôm nay: Năm năm trước, người được Miếu Thánh Nữ chọn làm làm ‘người có Thiên mệnh’ chính là Lục Đạm.
Nói cách khác, Lục Đạm và Mặc Kim đã quen biết từ năm năm trước.
Thạch Chân ngậm bút, bắt đầu để đầu óc bay xa: “Theo mạch này mà lần xuống thì khả năng quá nhiều. Thí dụ như Mặc Kim và Lục Đạm vốn là đồng mưu, vì nguyên do nào đó mà liên thủ giết Lữ Vô Nhai, về sau lại vì nguyên do nào đó trở mặt, đâm dao vào lưng nhau, mới khiến ở đỉnh Long Tuyền náo loạn một trận như vậy.”
Vân Tiễn cả kinh: “Cái gì?!”
“Lại thí dụ, Lục Đạm từ lần gặp gỡ năm năm trước đã si mê Thánh Nữ, tiếc là thế lực nàng quá lớn, sau lại bởi nguyên do nào đó mà cùng Lữ Vô Nhai nảy sinh hiềm khích, bèn nghĩ ra kế một mũi tên trúng hai con chim, giết Lữ Vô Nhai rồi đổ tội cho Thánh Nữ, lại dự định lấy đó làm mồi nhử, lừa Thánh Nữ vào phủ nha, cưỡng ép để độc chiếm làm của riêng.”
Vân Tiễn: “Lời này thật ư?!”
“Trường hợp tệ nhất chính là…” Thạch Chân nheo mắt thật dài, “Thánh Nữ hận Lữ Vô Nhai cản trở khắp nơi, nên mê hoặc Lục Đạm giết ông ấy, dẫn dụ Nho tu đến Miếu Thánh Nữ quấy phá, rồi lại giả bộ thành kẻ bị hại vô tội, lấy lòng thương hại của chúng nhân, thoát khỏi thân phận bị tình nghi. Lục Đạm đi bắt nàng, có lẽ cũng nằm trong kế hoạch đã định sẵn của Thánh Nữ, có khi còn có chiêu sau để giúp nàng rửa sạch hiềm nghi. Nhưng khi ấy lại tình cờ gặp đúng ba chúng ta, nên nhân tiện lợi dụng một phen.”
Vân Tiễn trừng mắt nhìn Thạch Chân, đã không thốt nên lời.
Thạch Chân vươn vai thật dài, thở dài: “Đáng tiếc, chứng cứ không đủ, tất cả chỉ tính là đoán mò thôi.”
“Qua đây mau, ta có phát hiện!” Linh Hư Tử cao giọng gọi hai người. Hắn đem năm tấm bản sao phóng đại của Kim Quang Phù treo ngang giữa không trung, lấy ngón tay làm bút, trong hư không vạch ra từng điểm đỏ, rơi vào nét bút phù văn của năm tấm Kim Quang Phù: Tấm thứ nhất, là nét “phiệt” thứ hai trong chữ “Thánh”; Tấm thứ hai, là nét “nạ” cuối cùng trong chữ “Sắc”; Tấm thứ ba, tư, năm lần lượt là nét “móc” và “sổ”, “chấm” trong các chữ “Tru”, “Không”, “Xá”.
Với nhãn lực của Thạch Chân, chỉ có thể thấy ở chỗ được khoanh lại lờ mờ nổi lên gợn sóng màu vàng nhạt, tựa như được in ấn bằng con ấn cực kỳ tinh vi. Phóng to gấp mười lần mà cũng chỉ dài chừng nửa li, nếu là nguyên bản thì đại khái chỉ một chấm, lại thêm màu sắc cực gần với giấy phù.
Thạch Chân: “Đây là gì?”
Linh Hư Tử đắc ý: “Linh văn.”
Vân Tiễn: “Linh văn là gì?”
Linh Hư Tử lộ ra dáng vẻ “ta đã biết mấy kẻ ngoại môn các ngươi kiến thức nông cạn”, lắc lắc vạt áo, nâng giọng: “Linh văn chính là tiên thiên khí văn, mỗi người một vẻ, vạn kiếp bất biến, là chân khí bản mệnh của phù tu hiện lộ ra ngoài.”
Thạch Chân: “Tương tự vân tay của con người? Mỗi người đều không giống nhau?”
Linh Hư Tử gật đầu: “Chính là vậy.”
Thạch Chân mừng rỡ: “Vậy có thể dựa vào linh văn trên Kim Quang Phù để khóa chặt người chế tác phù lục?!”
Linh Hư Tử gật đầu, rồi lại lắc đầu: “Muốn lưu lại linh văn, tất cần ‘giấy ngưng khí ’. Loại giấy này đã sớm thất truyền, những gì còn sót lại trên đời, một nửa nằm trong Thiên Phù Tông, nửa còn lại, hoặc là vật cất giữ của hoàng thất, hoặc nằm trong tay tu sĩ phù lục đại năng, có giá không bán, đó là điều thứ nhất.”
“Điều thứ hai, linh văn có hai loại, một loại là tiêu văn, một loại là tàn văn. Các ngươi hãy nhìn kỹ.” Linh Hư Tử đem năm bản sao kéo gần lại, phóng to thêm lần nữa: “Trên mỗi tấm Kim Quang Phù này, chỉ có một điểm nhỏ là giấy ngưng khí, được dùng bí pháp tinh vi gắn vào phù lục. Những phù lục cao cấp do đại năng phù tu tự sáng chế đều có, chuyên để lưu lại linh văn độc hữu của người chế phù.”
“Đó gọi là tiêu văn, giống như đề thơ lưu danh, chính là một loại dấu ấn phòng giả vô cùng thực dụng.”
Thạch Chân đã hiểu: “Cho nên những linh văn này chính là dấu phòng giả của Kim Quang Phù.”
Linh Hư Tử lắc đầu: “Đáng tiếc không phải, những thứ này đều là tàn văn.”
Thạch Chân: “Hả?”
“Phù tu đạo hạnh không đủ chỉ có thể lưu lại tàn văn trên giấy ngưng khí, mà dấu ấn tàn dư đó cũng chỉ bằng một phần trăm linh văn gốc, căn bản không thể nhận ra thân phận người chế phù.”
Vân Tiễn hỏi: “Có cách nào ghép nối những tàn văn này thành bản đầy đủ chăng?”
Linh Hư Tử đáp: “Vậy thì cần đủ ba trăm sáu mươi đạo phù lục đều lưu lại tàn văn, trừ hao tổn giấy khi khắc linh văn, chí ít cũng phải bốn trăm tấm, đúng là chuyện si tâm vọng tưởng.”
Thạch Chân và Vân Tiễn đồng loạt thở dài.
Linh Hư Tử tặc lưỡi hai tiếng, thu hết toàn bộ bản sao phù lục lại, nói: “Dấu phòng giả chân chính vốn chỉ có tu sĩ Siêu Phàm cảnh Tam giai trở lên mới có thể tạo ra. Ta xem tu vi của Thánh Nữ còn cách xa lắm, mười phần thì tám chín là chỉ nghe phong thanh về truyền thuyết phòng giả, muốn đem áp dụng vào Kim Quang Phù, kết quả lại thành ‘vẽ hổ chẳng được hóa mèo’… Ờ thì, theo một nghĩa nào đó, cũng coi như là phòng giả.”
Vân Tiễn: “Nói như vậy tức là Kim Quang Phù trên ngực Lữ Vô Nhai là hàng thật, không phải đồ giả.”
Thạch Chân bóp trán: “Cũng có nghĩa là nghi ngờ đối với Thánh Nữ lại càng tăng thêm.”
*
Để tiện cho việc tra án, Linh Hư Tử sai tiểu đồng mở hai gian thư thất liền kề tại tầng sáu Ngũ Xa Thư Lâu, bày sẵn giường đệm đơn giản, coi tạm làm phòng nghỉ.
Khi Thạch Chân chui vào chăn, thì đã quá giờ Tý, một ngày dài mệt như mười ngày, cảm giác ngay cả tinh huy trong tinh khiếu của cơ thể cũng uể oải, ảm đạm. Trong đầu nàng suy nghĩ vụn vặt về các manh mối, chẳng hay thiếp đi từ lúc nào.
Trong mơ, nàng nghe thấy ngoài phòng mưa rơi, tí tách rả rích. Thạch Chân ngủ mơ mơ màng màng, cuộn trong chăn xoay người, hững hờ nhấc mí mắt liếc một cái. Nào ngờ chỉ một cái liếc mắt lại thấy một khối bóng mờ ướt sũng đang chui qua khe cửa sổ, dán sát đất bò rất nhanh, phía sau kéo theo một vệt dài nhễu nước, còn vang lên những tiếng bõm bõm đặc sệt. Trong chớp mắt, nó đã leo đến cạnh giường, bám lấy ván giường, oằn ẹo ngóc dậy, vừa vò vừa vẩy nước trên đầu. Cái đầu, cổ, thân thể, đôi chân từ bẹt dần biến tròn, hóa thành một thư sinh mặt trắng trẻo.
Hai mắt Thạch Chân trợn tròn, bật dậy như cá chép quẫy nước, tung chăn kêu toáng: “Có ma a!!!”
*
Tiểu kịch trường
Tiểu Hắc lao đi trong bóng tối, mấy lượt nhảy vọt, né tránh sự truy sát phía sau. Bỗng, dưới chân hụt không, cả thân mèo bị người ôm lấy, nhét vào một chỗ chật hẹp, bên tai gió rít vù vù.
Phía sau là tiếng ai đó hô gọi: “Tiểu Hắc, mau chạy đi! Đi tìm Thạch cô nương!”
***