Hồi thứ ba mươi tám
Phía bắc Thiên Nguyên Quốc nhiều núi non hiểm trở. Trong đó, có một ngọn kỳ phong, bốn phía đều vách dựng đứng, đỉnh núi quanh năm mây mù bao phủ, chỗ dốc gần như thẳng đứng, vách đá nhẵn bóng như gương, đến cả vượn khỉ cũng khó mà leo trèo, chim chóc tuyệt tích chẳng thấy cánh bay.
Tương truyền từng có tu sĩ tại đây phi thăng thành tiên, khi ấy có suối trào đá phun ra, hình như giao long, bởi vậy lấy tên là Long Tuyền.
Mấy trăm năm sau, dưới chân đỉnh Long Tuyền, bách tính sinh sôi, dần dần hình thành một tòa trấn, cũng đặt tên là trấn Long Tuyền.
Trấn này nằm trong vòng tay vạn ngọn núi, non xanh trùng điệp, bình địa cực hiếm, nhà cửa lầu gác đều dựa núi bám vách mà dựng, tầng tầng lớp lớp, san sát chen chúc.
Đêm xuống, núi non tĩnh lặng, vạn ngọn đèn sáng rực như tinh châu bảo thạch khảm trên sườn núi, ngoằn ngoèo trải dài tựa một bức họa lập thể khổng lồ đang phát sáng.
Khi Vân Tiễn cưỡi kiếm chở Thạch Chân đến trên không trấn Long Tuyền, đập vào mắt chính là cảnh tượng ấy. Thạch Chân vốn nôn nao đến choáng váng, vậy mà bị vẻ hùng vĩ ấy chấn động đến mức quên cả khó chịu.
Linh Hư Tử cưỡi phù bay lề mề theo sát bên cạnh. Tốc độ phù vốn chậm gấp mấy lần ngự kiếm, nhưng Vân Tiễn vì lo Thạch Chân chịu không nổi nên chẳng dám gia tốc, giữa đường còn phải nghỉ ngơi bảy tám lượt, cuối cùng lại đến cùng lúc với cái phù bay kia.
Trong Thương Hải Các có một quy củ bất thành văn: ngoại trừ các thành trấn đặc chuẩn, bất kể tu sĩ bậc nào, hễ tiến vào nơi có phàm dân cư trú đều không được ngự pháp khí phi hành, để tránh tổn thương người (thực tế thì miễn đừng để ai phát hiện thì có thể lén bay, chỉ là nếu lỡ bị bắt, tất phải nộp phạt). Bởi vậy, ba người vừa nhập trấn đã phải xuống đi bộ.
Đường phố Long Tuyền uốn lượn theo núi, tên gọi cũng độc đáo. Ba dãy phố lớn đều lấy chữ “Bàn” mà đặt tên: Thượng là Bàn Long, địa thế cao nhất, hơn mười cây cầu lớn nối liền mấy ngọn núi, trông như những chiếc cầu vồng mọc giữa không, cực kỳ hùng tráng; Trung là Bàn Vân, vòng quanh sườn núi, hai bên là hàng hàng cửa hiệu xây ngay trên vách đá, dày đặc như châu ngọc rải khắp; Hạ là Bàn Tinh, vị trí thấp nhất, hành lang gác treo nối tiếp, đi trong đó cũng thú vị lạ thường.
Nối ba bàn phố chính đều là đường núi, bậc thang gập ghềnh bậc nối bậc, trông mà hoa mắt. Thạch Chân, Vân Tiễn thì không sao, riêng Linh Hư Tử vừa đi vừa thở hồng hộc lộ rõ là kẻ ít rèn luyện thân thể.
Ba người mất nửa canh giờ, mới leo lên được phố Bàn Vân, vòng vèo hai lượt, rốt cuộc tìm đến Tri Vi Các ở địa phận Long Tuyền.
Cửa hiệu dựa vào sườn đá, mặt ngoài dựng thêm mái hiên cong vút, trên cửa treo biển gỗ lớn “Tri Vi Các”, hai bên cột gỗ mun treo cặp câu đối:
Vế trước: Thấu suốt càn khôn, tỏ thật cùng hư.
Vế sau: Dạo khắp sơn hà, hay cơ nhiệm mầu
Ấy chính là tiêu chí dấu hiệu của Tri Vi Các.
Trên phố người qua kẻ lại tấp nập, riêng Tri Vi Các lại vắng như chùa bà đanh. Một tiểu nhị chừng mười tuổi ngồi ngáp dài trên bậc cửa, thấy ba vị khách bước đến thì giật mình, cuống quýt mời vào.
Trong tiệm tuy không rộng, nhưng kệ sách quầy bàn chỉnh tề, chính giữa đặt một cái đài ngọc bích, xanh biếc như ngọc lưu ly, khắc ba chữ “Vấn Tức Kính”.
Sau đài ngọc, có một lão nhân áo dài xanh thẫm, tóc bạc râu trắng, mày dài rủ xuống, đang ngồi gà gật, hệt dáng chưởng quầy.
Linh Hư Tử chắp tay sau lưng đảo mắt một vòng, “chậc chậc” mấy tiếng: “Làm ăn sa sút quá nhỉ.”
Tiểu nhị vội chạy qua lay gọi, lão nhân mới chầm chậm mở mắt ngáp dài một cái, nghỉ một chốc mới tỉnh, rồi từ tốn đứng dậy hành lễ: “Lão phu là Ôn Cửu Giám, chưởng quầy phân hiệu Long Tuyền Tri Vi Các. Ba vị có gì muốn hỏi?”
Thạch Chân đem bức họa thanh kiếm tự tay vẽ ra, đưa qua: “Ta muốn hỏi, thanh kiếm này ở đâu? Chủ nhân là ai?”
Ôn Cửu Giám nâng ngón tay hất nhẹ lông mày dài, nheo mắt xem một hồi, hỏi: “Đây là… cái que cời lửa sao?”
Linh Hư Tử “phụt” một tiếng cười phá lên.
Thạch Chân đỏ bừng mặt, vội nói: “Đây là…”
“Là một thanh kiếm.” Vân Tiễn nói, “Thân kiếm màu đen, khắc chú văn đỏ như máu.”
Thạch Chân nhìn hắn mang theo sự ngạc nhiên, hôm trước nàng chỉ tả sơ qua, không ngờ Vân Tiễn nhớ rõ như thế.
Ôn Cửu Giám bấy giờ mới “à” một tiếng, lật tay đưa lên: “Quý khách chiếu cố, năm mươi linh thạch.”
Thạch Chân kêu thất thanh: “Đắt thế sao?!”
Vân Tiễn: “Hai mươi linh thạch được không?”
Ôn Cửu Giám: “Không được, không được, đó là giá chung đã định, chẳng thể sửa.”
“Để ta!” Linh Hư Tử rút cả túi linh thạch quẳng tới, “Tiểu Thất yên tâm, sư huynh nhiều tiền lắm!” Nói xong còn hất cằm nhìn Vân Tiễn, ai ngờ Vân Tiễn mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim, chẳng buồn đáp lời.
Ôn Cửu Giám nhận tiền thì mặt nở hoa, lấy trong tay áo ra một chiếc khăn lụa, tỉ mẩn lau bụi trên đài ngọc rồi mới đặt bức vẽ lên giữa. Nhắm mắt, ngón tay tụ quang, miệng niệm chú:
“Gương soi vạn tượng, truy dấu tận nguồn; xét thấu cơ trời, hiển bày chân lý — Sắc!”
Mặt ngọc đài nổi sóng, quang huy trùm phủ bức vẽ, rồi vỡ tung thành vô số mảnh sáng xoay vần, va chạm lại hợp thành… chầm chậm ngưng kết ra ba bóng kiếm, đều thân đen chú đỏ, tương tự bức họa ba phần.
Thạch Chân kinh hãi, vội ghé mắt nhìn kỹ. Bóng kiếm đầu tiên, toàn thân đen đỏ như máu đông, chuôi kiếm khắc loáng thoáng phù văn dữ tợn, dọc giữa thân kiếm có một hàng chú văn vặn vẹo ghê rợn.
Bên cạnh hiện có chữ:
Tên kiếm: Xích Mị
Tung tích: Bị phong ấn tự cổ xưa, ba nghìn năm chưa từng xuất thế.
Thạch Chân: “Ồ ồ, cái này trông giống thật!”
Khí tức u ám rất hợp rất với Ma Quân.
Nàng lại nhìn sang bóng kiếm thứ hai, chất liệu đen sẫm, thân kiếm thon dài, hình chế cổ xưa, trên sống kiếm có một vết chú đỏ mảnh như vết sẹo ngoằn ngoèo, nhìn qua là thấy chẳng lành.
Tên kiếm: Thừa Kiếp
Lai lịch: Bội kiếm của Thành Minh chân nhân.
Linh Hư Tử trố mắt: “Thành Minh chân nhân? Chẳng lẽ chính là vị tiên nhân trong truyền thuyết đã sa ngã đọa ma?”
Vân Tiễn: “Về người này, truyền thuyết đã hơn vạn năm, nhưng đa phần là dã sử giang hồ, không thể khảo chứng.”
Thạch Chân gật gù lia lịa: “Ừ ừ ừ, cái này còn giống hơn! Lai lịch bất phàm!”
Đáng tiếc, phần “tung tích” bên cạnh chỉ ghi vỏn vẹn một chữ: “Không”.
Thạch Chân thở dài tiếc nuối, rồi lại nhìn sang bóng kiếm thứ ba. Thân kiếm so với hai thanh trước càng rộng và dày, toàn thân đen bóng, khắc đầy chú văn ngay ngắn chỉnh tề, kiếm quang khi thì u ám như đêm, khi thì lại lóe ra ánh hồng.
Tên kiếm: Tịch Diệu
Tung tích: trấn Long Tuyền, Miếu Thánh Nữ.
Thạch Chân reo lên: “A, trùng hợp ghê, ngay gần đây thôi!”
Vân Tiễn hỏi: “Miếu Thánh Nữ là nơi nào?”
Câu hỏi vừa thốt ra, ánh mắt Ôn Cửu Giám bỗng sáng rực, hai tay chắp lại đặt lên vai như một loại nghi lễ, rồi dẫn ba người ra cửa, chỉ về hướng đông, vẻ mặt đầy tôn kính: “Trên đỉnh cao nhất phía đông của núi Long Tuyền chính là nơi Miếu Thánh Nữ tọa lạc. Đó là gốc rễ ngàn năm khí vận của trấn Long Tuyền, là cơ sở để vạn dân sinh tồn!”
Linh Hư Tử khịt mũi cười nhạt: “Cái gì mà Miếu Thánh Nữ, ta chưa từng nghe bao giờ.”
“Vị khách quan tuyệt đối không thể nói năng khinh nhờn như thế!” Ôn Cửu Giám vội nói, “Ba vị từ xa tới, không biết thần thông của Miếu Thánh Nữ. Thánh Nữ có tuệ nhãn, soi thấu thiên cơ, dự đoán cát hung; Thánh Nữ có đại năng, điều khiển thiên tượng, hòa hợp bốn mùa, lại có thể trừ tà trấn ác, bảo hộ một phương bình an.”
Ôn Cửu Giám càng nói càng kích động, rồi cúi rạp mình hành lễ về hướng đông: “Lòng từ bi của Thánh Nữ rộng như đất trời, mênh như sơn hải, tuyệt đối không thể khinh mạn!”
Linh Hư Tử gãi cằm, mắt đảo vòng vo, không biết nghĩ ra điều gì, bèn im lặng.
Thạch Chân thì chẳng bận tâm mấy lời thần thánh, chỉ chỉ vào bóng kiếm trên đài ngọc: “Vậy tức là thanh Tịch Diệu kiếm này đúng là ở Miếu Thánh Nữ rồi?”
Ôn Cửu Giám chắp tay: “Tịch Diệu chính là Thánh kiếm, sinh ra cùng Thánh Nữ, được thờ phụng trong Miếu Thánh Nữ, hưởng hương khói muôn nhà, vô cùng thánh khiết, trăm họ đều ngưỡng vọng. Nếu ba vị muốn chiêm ngưỡng bái lạy có thể đến vào ngày mùng năm đầu tháng, lên đỉnh Long Tuyền, lễ bái Miếu Thánh Nữ, có cơ duyên thì sẽ được thấy Thánh kiếm tỏa vạn trượng thần quang.”
Tuy đã có được tin từ Tri Vi Các nhưng trong lòng Thạch Chân lại cảm thấy phiền muộn.
Ba thanh kiếm này đều giống với trường kiếm đen trong mộng, chỉ tiếc trong mộng quá mơ hồ, chi tiết chẳng mấy rõ ràng, chỉ nhớ khi bị kiếm đâm vào ngực thì đau thấu tâm can. Chẳng lẽ phải tìm từng thanh, rồi cắm thử vào ngực mới biết sao?
May mắn thay, từ lần đó đến nay, giấc mộng tương lai chưa hề tái hiện, thời gian hẳn còn dư dả. Dù sao hai thanh kia đều không có tung tích vậy trước hết chi bằng thăm dò “Tịch Diệu Thánh Kiếm” này, ngựa chết coi như ngựa sống mà chữa vậy.
Cách mùng năm đầu tháng còn vài ngày, ba người quyết định tìm khách điếm nghỉ tạm.
Khách điếm ở Long Tuyền đều dựng vòng quanh phố Bàn Long trên núi cao, đèn ngọc treo cao trên từng tầng mái ngói uốn cong, phản chiếu trời đêm như lâu đài tiên cảnh, cung điện chốn thiên đình.
Thạch Chân chọn một nơi tên “Hàm Nguyệt Cảnh”, gồm hai tòa lầu, trước là tửu lâu, sau là khách xá, trên biển hiệu khắc gia huy của nhà họ Ngô.
Thạch Chân đưa ra ngọc bài tín vật, tiểu nhị vừa thấy đã hét toáng, chạy thẳng vào trong. Không bao lâu, một lão chưởng quầy, sáu đầu bếp, hai tiên sinh sổ sách, mười hai tạp dịch, tám tiểu nhị, ba phu xe ùa hết ra, còn mang theo cả đội múa lân, không phải người hóa trang mà là hai con sư tử thật, do ngự thú sư thuần dưỡng, đầu bờm buộc đủ màu, nhảy nhót vòng quanh ba người, đuôi vẫy đầu lắc, bên này trống chiêng rộn rã, bên kia vỗ tay hoan hô, khí thế náo nhiệt vô cùng.
Linh Hư Tử ban đầu giật nảy mình, chẳng mấy chốc đã quen, còn lắc lư theo nhịp trống. Vân Tiễn thì mặt đỏ như gấc, còn Thạch Chân thì hận không thể xé mặt mình nhét vào túi cho xong.
Tiểu Hắc trong lòng nàng bị đánh thức, nổi giận, nhảy vọt lên đầu Thạch Chân gầm gừ mấy tiếng khiến hai con sư tử sợ hãi quỳ rạp xuống đất, cuộc náo loạn mới chịu chấm dứt.
Thạch Chân thuê một gian phòng yên tĩnh ở tầng ba nhìn ra cửa sổ, vừa kín đáo vừa dễ nghe ngóng tin tức trong tửu lâu. Chưởng quầy chiêu đãi theo lệ, bày ra một bàn đầy rẫy rượu ngon thức quý.
Lần này Vân Tiễn đã có kinh nghiệm, trước tiên gắp liền hai đĩa.
Linh Hư Tử còn chưa kịp hoàn hồn thì nửa số món đã bị Thạch Chân nuốt sạch, vội vàng ôm chặt đĩa bánh bao còn sót lại, nghi ngờ hỏi: “Tiểu Thất, chẳng phải muội là Huyền Ly tộc sao? Sao lại ăn được thịt cá?”
Vân Tiễn thoáng khựng đũa, ngạc nhiên: “Thì ra Thạch cô nương là Huyền Ly linh tộc?”
Miệng Thạch Chân vẫn đang nhồi đầy, chỉ phát ra được mấy tiếng “ưm ưm nè”, khiến Linh Hư Tử lại càng đắc ý, liếc Vân Tiễn một cái: “Xem ra giao tình của ngươi với Tiểu Thất cũng thường thôi mà.”
Vân Tiễn mím môi, cúi đầu lặng lẽ ăn, không nói một lời.
Thạch Chân tu ừng ực hai ngụm trà rồi mới đáp: “Thể chất ta đặc biệt, chay mặn đều không kỵ.”
“Đúng rồi đó, sư phụ từng viết trong thư rằng muội đã ăn sạch heo rừng, lừa rừng, ngựa rừng, trâu rừng trên núi.” Linh Hư Tử nói, “Hẳn là vì thể chất Huyền Ly tộc đặc biệt, tiêu hao cực lớn nên sức ăn gấp mấy lần người thường.”
Thạch Chân thở dài: “Lúc nào cũng ăn không no, phiền chết.”
Đũa Vân Tiễn khựng lại một thoáng, lặng lẽ đẩy đĩa rau xanh mình vừa giành được sang trước mặt nàng. Nào ngờ Thạch Chân chẳng thèm liếc mắt, chỉ lo gắp thịt cá, húp canh ăn cơm, Vân Tiễn lại lặng lẽ kéo đĩa rau trở về.
Linh Hư Tử nhìn cảnh đó, nhịn cười đến suýt nội thương, lại gỡ vài khúc thịt cá cho Tiểu Hắc. Tiểu Hắc dường như trời sinh có cảm tình với hắn, ăn rất tự nhiên, còn thỉnh thoảng giơ vuốt ra ra hiệu cho hắn gắp thêm, gỡ thêm.
Lúc này, chưởng quầy hớt hải chạy vào, mặt mũi đầm đìa mồ hôi mà khom lưng bẩm: “Khởi bẩm cô nương, chỉ còn lại một gian phòng, không biết ba vị…”
Thạch Chân: “Còn khách điếm khác thì sao?”
“Đã hỏi hết rồi. Còn bốn ngày nữa là đến tế điển Miếu Thánh Nữ, toàn bộ khách điếm trong trấn đều kín phòng.”
Vân Tiễn: “Vân mỗ ở chuồng ngựa, nhà kho cũng được.”
“Chuồng ngựa nhà kho cũng chật ních rồi. Gian này vốn của lão hủ, nay đặc biệt nhường lại cho cô nương.” Chưởng quầy vội lau mồ hôi, “Hay ba vị tạm chen chúc một đêm, mai ta lại nghĩ cách dọn thêm mấy phòng khác.”
Vân Tiễn liền đáp: “Không sao, Vân mỗ có thể ra mái nhà ngồi thiền…”
“Không được!” Thạch Chân kiên quyết ngắt lời, “Thân thể Vân huynh yếu nhược thế kia, thương thế vừa mới lành, nhỡ đêm nay trúng gió lại phải uống thuốc, lại phải điều tức, lại phải tĩnh dưỡng, phiền toái chết đi được. Chi bằng chịu khó chen chúc cùng nhau.”
Linh Hư Tử suýt hất cả đôi đũa: “Hắn? Một kiếm tu Ngưng Nguyên cảnh, yếu nhược ư?”
Thạch Chân thở dài: “Yếu lắm.”
Tiểu Hắc cũng gật đầu lia lịa.
Linh Hư Tử đập bàn cười sằng sặc.
Trên mặt Vân Tiễn hai màu đỏ trắng thay nhau, định mở miệng phản bác nhưng nhớ lại cảnh trước đó, so với thân thể mình đồng cốt thép, vạn độc bất xâm, thể lực hơn người của Huyền Ly tộc, thì bản thân quả thực… quả thực… chẳng có cách nào chối cãi!
Chưởng quầy được lệnh, hớn hở đi thu xếp phòng.
Thạch Chân ăn uống no say, ôm Tiểu Hắc vuốt lông, vừa uống trà vừa vểnh tai nghe ngóng, nhưng ngoài đường ồn ào, tiếng người ầm ĩ, chẳng nghe rõ mấy.
Linh Hư Tử hiếu kỳ, hỏi: “Tiểu Thất, vì sao nhất định phải tìm một thanh kiếm đen?”
Thạch Chân: “Mật lệnh của sư phụ.”
Linh Hư Tử càng hiếu kỳ. Phải biết Mặc Chiếu lão nhân cả ngàn năm không chịu ra khỏi cửa, chẳng màng gió mưa ngoài đời, bỗng dưng lại phái Tiểu Thất xuất sơn tìm một thanh kiếm lạ, ắt có uẩn khúc. Cái náo nhiệt này mà hắn không góp mặt thì chẳng phải thiệt thòi sao.
Nghĩ vậy, hắn lập tức phẩy tay, thả ra một xâu “Thiên Thử Phù” (lá phù nhỏ cỡ ngón tay cái, tỉ mỉ vẽ một con dơi tí hon, giỏi nhất là lén nghe lén nhìn).
Phù giấy lách qua khe cửa, len lén dán dưới gầm từng bàn ngoài đại sảnh, ngay tức thì, mọi lời bàn tán được truyền rõ mồn một, chẳng khác gì trực tiếp phát sóng.
Quả nhiên đúng như Thạch Chân dự liệu, tám phần khách khứa đều bàn luận chuyện Miếu Thánh Nữ, đa số là lời tán tụng ca ngợi, thần thần bí bí, chẳng khác gì Ôn Cửu Giám đã nói. Thỉnh thoảng xen lẫn vài lời đồn đại nhà giàu bị ma quấy, nàng đoán chừng toàn chuyện thêu dệt hư truyền.
Nghe mãi, rốt cuộc cũng lọt ra một tin hữu dụng rằng ngày mùng năm tháng trước, Miếu Thánh Nữ đã tiên tri và để lại một bài thơ:
【Phượng Vũ bên thuyền suối lạnh dâng, màu huyền lẩn bước, cột soi bừng.
Đan sa thấm đất vườn Tây thẳm, Bắc Đẩu che mưa chốn đêm rừng.
Muốn dứt tai ương tìm núi Long, chớ chờ trời đổ lật thuyền chung.
Họa phúc xoay vần không định hướng, người đời tỉnh ngộ mới an hùng.】
Linh Hư Tử đập bàn: “Cái này giống y như lời ta từng nghe nói về Chu đại thiện nhân.”
Thạch Chân: “Hả?”
Linh Hư Tử: “Chu đại thiện nhân mở xưởng vải vóc, món trấn bảo là ‘Phượng Vũ y’ hay còn gọi Kim Chu. ‘màu huyền’ chỉ tà vật âm u. Hôm nọ chúng ta trú mưa ở trang viện phía Tây, ‘Đan sa’ chẳng phải ám chỉ phù chú của bần đạo sao. Hôm ấy quả thật mưa to giữa đêm. Ôi chà, khớp hết rồi còn gì!”
Thạch Chân chống cằm ra dáng suy tư: “‘Muốn dứt tai ương tìm núi Long’, núi Long ở đây chính là đỉnh Long Tuyền. Ý nói chỉ có Miếu Thánh Nữ mới trừ được tà quái của Chu gia. Vậy thì lời tiên tri đám lữ khách kể dọc đường, chính là cái này rồi. Ha ha, thú vị thật.”
Vân Tiễn nhấp chén trà, lạnh nhạt nói: “Cái gọi là ‘tiên tri’, xét đến cùng chẳng ngoài ba trò: một là dỗ, hai là gạt, ba là hư trương.” Nói xong, khóe mắt còn liếc Linh Hư Tử một cái.
Linh Hư Tử thì hưng phấn: “Nếu có thể gạt được cả đám người tin sái cổ, cũng là bản lĩnh phi phàm. Bần đạo nhất định phải đi gặp vị Thánh Nữ kia một phen!”
“Hay lắm.” Thạch Chân gõ bàn cái cộp: “Bốn ngày nữa, chúng ta cùng đi…”
Lời còn chưa dứt, nàng bỗng khựng lại, quay phắt nhìn Vân Tiễn.
“Làm sao?” Vân Tiễn khó hiểu.
“Bốn ngày nữa là mùng năm. Hôm nay là mùng một… tức là ngày trăng non…” Thạch Chân hít một hơi.
Chữ cuối còn chưa ra, ngoài cửa sổ đã vang dậy một tràng chửi rủa kinh thiên động địa, toàn những câu quen tai như:
“Kẻ nào không biết xấu hổ dám loạn dùng kiếm quyết!”
“Đồ khốn nạn ăn phân!”
“Thanh bảo kiếm ta mới mua mà!”
“Mau đuổi theo, mau lên!”
Thạch Chân và Vân Tiễn nhìn nhau, cùng ló đầu qua cửa sổ, thấy một đám mây kiếm đen nghịt cuồn cuộn kéo đến, sau lưng mây kiếm, gần trăm kiếm tu đang gào thét đuổi theo, tóc dựng mặt đỏ, nước bọt bay tung.
Dẫn đầu là một người mày rậm vàng óng, miệng hét lớn: “Đệ tử Chu Đại Mi, dưới trướng Tam trưởng lão Thiên Kiếm Các Thiên Cùng phong, tới đây vấn kiếm! Xin Quảng Bạch Quân chỉ giáo!”
Thạch Chân: …………
Linh Hư Tử cũng thò đầu ra, trợn mắt: “Vạn Kiếm Quy Tông? Cái này… nhắm vào ngươi hả?”
Sắc mặt Vân Tiễn đã đen kịt.
*
Tiểu kịch trường
Tiểu Hắc ngậm khúc xương cá, lắc lắc cái đầu nhỏ: Cái kẻ lông mày dài kia quả nhiên lại tới rồi meo!”
***