Hồi thứ mười bảy
Thạch Chân ngồi dưới gốc cây Huyền Nguyệt, ngắm trăng, ngắm hoa, ngắm thịt nướng.
Ngô Hoán thay một bộ y phục đơn giản, nhìn Thạch Chân ăn ngấu nghiến thì mỉm cười lấy khăn tay ra, dịu dàng lau miệng cho nàng, nói: “Chừng ấy năm trôi qua rồi, muội vẫn ham ăn y như hồi nhỏ.”
Thạch Chân đánh một cái ợ rõ to, tu liền hai chén trà lớn, cũng cười nói: “Tỷ cũng chẳng khác gì hồi nhỏ cả.”
“Ta ư?” Ngô Hoán lắc đầu, bật cười khẽ. “Bóng câu qua khe cửa, thời gian như nước chảy. Muội vẫn giữ dáng vẻ trẻ con, còn ta…” Nàng khẽ thở dài, ngẩng đầu, ánh mắt khẽ lay động, “Đã là thân mỏi tâm mòn rồi.”
Thạch Chân sững người, chẳng rõ vì sao, dù lúc này đang ngồi sát bên Ngô Hoán, nàng lại có cảm giác mình cách Tiểu Ngũ của năm xưa rất xa.
Gió nổi lên, cánh hoa rơi rụng tả tơi, như ánh trăng cô tịch rải đầy bầu trời.
Ngô Hoán bỗng lấy lại tinh thần, vui vẻ hỏi han Thạch Chân những năm qua sống thế nào.
Thạch Chân liền kể vanh vách những chuyện kỳ quặc trên núi, thêm mắm dặm muối: trên núi có một lão nhân âm dương quái khí, chính là sư phụ nàng, ngày nào cũng lôi nàng ra dày vò làm thú vui; lại có hai con bù nhìn đầu cỏ ngốc nghếch, một đứa làm bảo mẫu, một đứa làm bạn luyện tập, chẳng nói được mà lại rất lắm lời. Cuộc sống hàng ngày của nàng chính là bị đánh, đánh người, rồi lại bị đánh, rồi đánh trả, thắng thua ngang nhau.
“May mà vẫn được ăn no, ta cao lên rồi.” Thạch Chân thở dài, “Chỉ là lũ heo rừng trên núi gần như bị ta ăn sạch, lỗi tại ta, không nên chỉ ăn thịt heo, phải nếm cả thịt gấu, thịt sói, hổ, bò… có hưởng đều thì mới giữ được cân bằng sinh thái chứ.”
Ngô Hoán bật cười thành tiếng.
Thạch Chân nói tiếp: “Còn tỷ thì sao, mấy năm nay, ngoài cái tên Phong Tứ kia ra, có ai bắt nạt tỷ không?”
Ngô Hoán: “Hả?”
“Tỷ lập một danh sách đi, ai bắt nạt tỷ, cứ ghi hết vào, ta sẽ tìm từng đứa mà đòi lại công bằng cho tỷ.” Thạch Chân nghiêm mặt nói.
Ngô Hoán bật cười lớn, cười đến mức nghiêng trước ngả sau, nước mắt ròng ròng, cười suốt nửa tuần trà mới ngừng được, lau nước mắt nói: “Không cần đâu, kẻ nào bắt nạt ta, ta xử lý hết rồi.”
Thạch Chân tròn mắt: “Xử sao vậy?”
Ngô Hoán rót trà cho nàng, từ tốn kể lại chuyện mười ba năm qua. Không rõ có phải do tràng cười vừa rồi đã gột rửa hết mọi khúc mắc trong lòng hay không, mà lúc này thần sắc, giọng điệu của Ngô Hoán chẳng khác gì Tiểu Ngũ tám tuổi, thậm chí còn mang theo chút hồn nhiên và ngây ngô của trẻ nhỏ.
Kể đến đoạn Thái Tổ Ngô Anh và phụ thân Ngô Thù qua đời, mắt nàng hoe đỏ; kể đến chuyện các trưởng lão thừa lúc nàng còn nhỏ tuổi để chiếm đoạt gia ấn, nàng nghiến răng tức giận. Kể nàng đã một thân một mình đàm phán với quan trấn, đưa ra sách lược biến trấn Huyền Nguyệt thành thành Bất Dạ Thành; kể nàng từng bước từng bước tính toán, khéo léo xoay xở, trải qua muôn vàn khó nhọc để chống đỡ việc buôn bán ẩm thực nhà họ Ngô; kể nàng đã thu thập chứng cứ tội ác của Phong Luân Thiện ra sao, liên hệ với Ngoại Sự Đường của Thiên Kiếm Các thế nào, làm sao phát hiện hắn giả mạo linh căn…
Những năm tháng ấy, Thạch Chân chưa từng được chứng kiến, nhưng lúc này lại như một dòng suối róc rách chảy giữa hai người, Thạch Chân chăm chú lắng nghe, hoàn toàn hóa thân thành người bạn phụ họa, khi thì cười vang, lúc thì giận dữ, khi thì vỗ tay reo hò, như thể chính mình từng trải, chính mắt thấy.
Một đêm trôi qua, trời dần sáng, hoa Huyền Nguyệt đồng loạt tàn úa, chỉ còn cành lá xào xạc lay động trong gió.
Ngô Hoán và Thạch Chân không hẹn mà cùng yên lặng, ngước nhìn ánh sáng đầu tiên vừa ló trên ngọn cây.
Một ngày mới, đã bắt đầu.
Ngô Hoán đứng dậy, thi lễ: “Cao tổ cô cô thứ lỗi, Hoán vẫn còn việc trong tộc, chẳng thể lưu lại lâu.”
Thạch Chân gật đầu, rót hai chén trà, một chén đưa cho Ngô Hoán, một chén tự nâng lên, nói: “Từ nay gọi ta là Thạch Chân, đừng gọi theo vai vế nữa.”
Ngô Hoán cầm chén trà, có chút sững sờ: “Nhưng mà…”
Chén của Thạch Chân khẽ “keng” một tiếng chạm vào: “Tiểu Ngũ và Thạch Chân là bằng hữu.”
Mắt Ngô Hoán hoe đỏ, hai tay nâng chén, một lần nữa nghiêm túc cụng với Thạch Chân: “Bằng hữu tốt.”
Thạch Chân bật cười, uống cạn một hơi: “Nhớ viết thư cho ta, ai bắt nạt tỷ, ghi hết lại, tỷ đánh không lại thì để ta đánh cho.”
Ngô Hoán không nhịn được bật cười: “Được.”
“Ta đi đây.”
“Ừ.”
“Tạm biệt.”
“Tạm biệt.”
*
Khi Mặc Chiếu trông thấy Thạch Chân, câu đầu tiên là: “Sao về sớm vậy? Không phải nên ở lại trấn Huyền Nguyệt mười năm tám năm sao?”
Thạch Chân cười đáp: “Đồ nhi thật lòng nhớ mong sư phụ, nên quay trở lại.”
Mặc Chiếu phất tay áo, tỏ ý nịnh nọt nồng quá, hắn lớn tuổi thế này, nghe không nổi nữa rồi.
Thạch Chân mang về một đặc sản của trấn Huyền Nguyệt đó là một đóa hoa Huyền Nguyệt. Nhân lúc ánh trăng lúc nửa đêm đẹp nhất, nàng hái xuống, cất vào hộp khóa linh để giữ tươi. Đến khi lấy ra khỏi hộp, cánh hoa và nhụy hoa mềm mại lập tức hóa thành một chùm sáng rực rỡ bay vút lên trời, xoay tròn vài vòng rồi nhập vào tán lá của đại thụ, lưu quang rực rỡ, đẹp đến nao lòng.
Tiểu Giáp và Tiểu Ất nhìn mà ngây dại. Thạch Chân ngước nhìn từng đường vân lá lấp lánh khắp trời, trong lòng chợt lạc lõng, chẳng biết lần sau có thể thấy lại cảnh tượng thế này là khi nào.
Mặc Chiếu bỗng từ phía sau bật tay búng mạnh lên trán nàng một cái: “Thiên Cơ tinh khiếu ở ấn đường của ngươi có dấu hiệu phá phong, chuyến này đi Huyền Nguyệt trấn, lại gây ra chuyện xấu gì đấy hả?”
Thạch Chân ngẫm nghĩ một chút, liền kể sơ lược chuyện mình phá đám hôn lễ, đấm cho Phong Luân Thiện một trận, rồi lại cùng bằng hữu lâu năm ăn một bữa thịt nướng cũng lâu năm chưa ăn.
Mặc Chiếu nghe rất chăm chú, đặc biệt truy hỏi kỹ thuật phù chú mà Phong Luân Thiện sử dụng. Thạch Chân dĩ nhiên chẳng nhớ rõ, hồi lâu mới gãi đầu đáp: “Khẩu quyết hình như là… thiêu chim? Thiêu gà? A! Nhớ rồi, là thiêu Thiên.”
“Là Phần Thiên mới đúng!” Mặc Chiếu bất lực nói.
“Cũng gần giống mà.” Thạch Chân nhún vai, chẳng mấy để tâm.
Mặc Chiếu đi vòng quanh Thạch Chân mấy vòng, miệng lẩm bẩm: “Tuy chỉ là phù đỏ bậc phàm, nhưng dù sao cũng là phù của Thiên Kiếm Các, miễn cưỡng xem như là phù hỏa thượng thừa. Ngươi…” Hắn nhướng mày, “Khi phá được phù ấy, trong lòng nghĩ cái gì?”
Thạch Chân siết tay thành quyền: “Kệ mẹ nó, đập chết nó trước đã!”
Mặc Chiếu: “Rồi sao nữa?”
“Sau đó?” Thạch Chân suy nghĩ, “Chính là tập trung đánh cho xong.”
Mặc Chiếu sững người chốc lát, rồi bất chợt cười lớn, tiếng cười vang dội làm tán cây đại thụ trên đầu rung rinh ào ào, như thể bản thân nó cũng đang cười rộ theo.
Thạch Chân dựng tóc gáy, lùi lại mấy bước đầy cảnh giác, còn tiện thể kéo cả Tiểu Giáp Tiểu Ất lùi theo, bụng nhủ: “Lão đầu ba nghìn tuổi này chẳng lẽ già quá rồi phát điên sao?”
Mặc Chiếu cuối cùng cũng dừng cười, hỏi: “Ngươi còn nhớ khẩu quyết tâm pháp Tại Địa không?”
Thạch Chân tất nhiên nhớ, nàng từng chép đi chép lại hàng ngàn lần, đọc làu làu: “Côn nguyên thừa đức, huyền hoàng bản nguyên, trần lự tĩnh đốc, tứ thời thủ niệm.”
Mặc Chiếu: “Giờ đây, ngươi đã lĩnh ngộ được hàm nghĩa chân chính của nó chưa?”
Thạch Chân đảo mắt: “Ờm…”
“Quả nhiên là một cục đá.” Mặc Chiếu dở khóc dở cười. “Trong lòng ngươi vốn đã lĩnh ngộ từ lâu, chỉ là bản thân chẳng hay biết. Không rõ là đại trí giả ngu, hay đại ngu có trí nữa.”
Thạch Chân nghe càng lúc càng mờ mịt: “Sư phụ, chúng ta có thể giao lưu tiếng người không?”
“Cái gọi là Côn nguyên thừa đức, nghĩa là đứng vững nơi chân mình đặt. Huyền hoàng bản nguyên, là không quên bản tâm. Trần lự tĩnh đốc, tứ thời thủ niệm, là gạt sạch tạp niệm, chuyên chú vào hiện tại.” Mặc Chiếu chỉ vào trán nàng, “Khi ngươi phá phù, trong lòng không chút tạp niệm, chỉ có ý niệm duy nhất là phá trận, ấy chính là vận được tinh túy của tâm pháp Tại Địa.”
Thạch Chân đưa tay khẽ chạm vào trán, cảm thấy âm ấm lạ thường. Nhắm mắt cảm nhận, Thiên Cơ tinh khiếu khi ẩn khi hiện, quả thực có dấu hiệu đột phá.
“Vậy thì, Tại Địa thật sự có nghĩa là…” Thạch Chân từng chữ một khẳng định: “Chớ nghĩ chuyện đã qua, chớ lo chuyện chưa đến, chỉ tập trung vào khoảnh khắc hiện tại: mình đang ở đâu, đang làm gì, đang nghĩ gì.”
Mặc Chiếu gật đầu: “Tâm pháp này, hiểu thì dễ mà làm thì khó. Mấy ngàn năm qua, trong muôn vàn sinh linh, có mấy ai không bị quá khứ ràng buộc, không vì tương lai lo âu? Người càng thông minh khôn ngoan, càng giỏi toan tính thì lại càng khó đạt được cảnh giới đó.”
Mặc Chiếu lại khẽ thở dài: “Vi sư cả đời cũng chẳng thể thông suốt, chỉ có người tấm lòng thuần phác, như ngọc thô chưa mài như ngươi mới có thể đạt được chút thành tựu.”
Thạch Chân nghe vậy hớn hở ra mặt, quả nhiên nàng là thiên tài tu hành mà!
“Mà giờ ngươi đã sơ bộ nắm được tâm pháp Tại Địa, vi sư cũng chẳng giúp được bao nhiêu nữa.” Mặc Chiếu chống cằm hỏi, “Vậy ngươi dự định sau này tu hành ra sao?”
Câu hỏi này với nàng chẳng khác gì câu dễ nhất đề thi!
Thạch Chân hắng giọng, nghiêm túc đáp to: “Ăn no, luyện quyền, cao lên, sống tiếp!”
*
Thế là, Thạch Chân bắt đầu giai đoạn tu hành tiếp theo.
Tuy nói vậy, nhưng thực ra so với ngày trước cũng chẳng có gì khác mấy.
Ngủ sớm dậy sớm, luyện quyền không ngừng, ăn ba bữa đều đặn, ngày nào cũng bị đánh, mặt trời mọc rồi lặn, mây bay hoa nở, ngày ngày trôi đi như dòng nước.
Khi Bát Phong Quyền được luyện đến một vạn lần, phong ấn Thiên Cơ tinh khiếu được giải ba phần, Ngô Tiểu Ngũ gửi đến bức thư nhà đầu tiên. Ngô Hoán đã đứng vững trong tộc họ Ngô, tìm được một vị phò mã ở rể và thành thân. Phò mã tuy năng lực bình thường, nhưng tính tình hòa nhã, phẩm hạnh tốt, đúng chuẩn nội trợ ưu tú, vị trí chấp chính của Ngô Hoán ngày càng vững chắc.
Khi Bát Phong Quyền đến hai vạn lần, phong ấn mở được bảy phần. Ngô Tiểu Ngũ gửi thư thứ hai, báo tin nữ nhi đầu lòng ra đời, thông minh đáng yêu, nhờ Thạch Chân đặt tên giúp.
Thạch Chân hiếm hoi nghỉ một ngày, lục tung sách trong phòng Mặc Chiếu, vắt óc suy nghĩ đặt ra cái tên cực hay: Sở.
Sở, là ánh sáng đầu phương Đông.
Mặc Chiếu phun trà: “Ngô Sở? Chi bằng gọi là… Hồng Sở cho rồi!”
Đến khi Bát Phong Quyền được luyện đến mười vạn lần, phong ấn Thiên Cơ tinh khiếu đã giải được tám phần. Ngô Tiểu Ngũ gửi bức thư thứ ba: phò mã mắc trọng bệnh, đã qua đời. May mà Ngô Hoán còn ba đứa con bầu bạn, Ngô Sở đã đến tuổi cài trâm, hai đệ đệ cũng tới tuổi nhập học.
Khi quyền pháp luyện đến hai mươi vạn lần, phong ấn Thiên Cơ tinh khiếu không hề nhúc nhích. Ngô Tiểu Ngũ gửi bức thư thứ tư: con của Ngô Sở ra đời, hai đệ đệ đã kết hôn, trong nhà càng lúc càng đông vui náo nhiệt.
Khi Bát Phong Quyền vượt qua ba mươi vạn lượt, Thạch Chân nhận được bức thư thứ năm. Ngô Hoán đã truyền lại chức tộc trưởng cho nữ nhi của Ngô Sở là Ngô Vị, thuận lợi lui về ẩn cư, an hưởng tuổi già. Ngô Tiểu Ngũ giờ đã bốn đời đồng đường, mười mấy đứa chắt ngày nào cũng náo loạn khiến bà nhức đầu.
Đến khi Bát Phong Quyền luyện được năm mươi vạn lần, tu hành của Thạch Chân không còn tiến triển, Mặc Chiếu đích thân đến quan sát suốt một ngày, chỉ lắc đầu thở dài rồi rời đi.
Đêm ấy, Thạch Chân lại mơ một giấc mộng.
Nửa đầu giấc mộng vẫn giống hệt những lần trước: nam chính quyết đấu với Ma Quân theo kiểu kịch bản cũ, nhưng lần này, khi Ma Quân giẫm chân lên người Thạch Chân, nàng không hề khách khí, tung ngay một chiêu “Cự Phong Băng Sơn Thức” đập hắn lăn quay. Thạch Chân lập tức phản đòn, định giẫm lại để trả thù “một cước năm xưa”, ai ngờ đúng lúc ấy, Ma Quân đột ngột rút ra một thanh trường kiếm trắng toát, “vút” một tiếng xuyên thẳng qua ngực nàng.
Thạch Chân choàng tỉnh, ôm lấy ngực, đau đến mồ hôi lạnh túa ra đầy trán, phải mất một khắc mới thở được bình thường.
Ngoài cửa sổ, trời mới vừa hửng sáng, chim hót hoa thơm. Tiểu Ất đang hầm canh thịt, Tiểu Giáp thì hì hục kéo dãn gân cốt chuẩn bị làm bạn luyện tập hôm nay.
Thạch Chân nhắm mắt bình ổn nhịp tim, thầm nghĩ: tốt lắm! Ngần ấy năm trôi qua, cuối cùng nàng cũng có được manh mối mới, Ma Quân dùng kiếm, thanh kiếm trắng, mười phần thì tám chín phần là kiếm tu.
Mặc Chiếu hiếm hoi dậy sớm, cùng Thạch Chân dùng điểm tâm. Hắn mỉm cười hỏi: “Sắc mặt hôm nay trông tốt lắm, tối qua ngủ ngon?”
Thạch Chân thở dài: “Miễn cưỡng.”
Mặc Chiếu: “Trông ngươi dạo này cao lên không ít, đám heo rừng, bò rừng, lừa rừng trên núi này chết cũng coi như không uổng.”
Thạch Chân: ?
Mặc Chiếu vung tay gọi ra một tấm gương nước cao sáu thước, trong suốt sáng ngời dựng trước mặt nàng.
Thạch Chân đã chẳng nhớ nổi lần cuối mình soi gương là khi nào. Ngày ngày luyện quyền tu hành, mặt mũi đầy tro bụi, bầm dập xanh tím, đến rửa mặt cũng lười. Lúc này đối mặt với chính mình trong gương, nàng thoáng ngỡ ngàng.
Thiếu nữ trong gương cao ráo thanh tú, tay chân dài thon, tóc đen tuyền, má ửng hồng, mắt đen láy, hóa ra nàng đã vô thức lớn lên thành dáng dấp một thiếu nữ mười lăm mười sáu tuổi, chỉ là y phục hơi rách rưới. Kỹ năng may vá của Tiểu Ất mấy chục năm không tiến bộ chút nào.
Mặc Chiếu đưa ra một phong thư, bên trên in huy hiệu của tộc họ Ngô. Chỉ là lần này không phải do Ngô Hoán viết, mà là chắt nữ Ngô Vị viết thay. Trong thư nói Ngô Hoán tuổi cao sức yếu, nằm liệt giường ngày càng nhiều, thường mộng thấy và nhắc tên Tiểu Thạch Chân.
Thạch Chân ngẩn người nhìn chằm chằm bức thư trong tay, trong lòng rỗng tuếch.
Mặc Chiếu chỉnh lại tay áo, chậm rãi nói: “Tu hành của ngươi đã tới bình cảnh, chỉ dựa vào bế quan khổ luyện thì dù có trăm năm nữa e rằng cũng không đột phá nổi. Chi bằng đổi một cách khác, có lẽ sẽ gặp được cơ duyên.”
Thạch Chân cất thư vào lòng, ngẩng đầu nhìn lên.
Trời xanh cao, mây trắng lững lờ, trên tán đại thụ lại có thêm vài tổ chim, những chú chim non lông tơ vươn cổ ríu rít không ngừng.
Gió nổi lên, lá cây xào xạc, trong gió thoảng mùi ve mùa hạ.
Dường như… đã đến lúc.
Thạch Chân chỉnh lại y phục, đứng dậy nghiêm cẩn hành lễ với Mặc Chiếu, trịnh trọng nói: “Sư phụ, đồ nhi nay đã có thêm lĩnh ngộ về Bát Phong Quyền, xin sư phụ chỉ giáo.”
Mặc Chiếu: “Ồ? Nói thử xem.”
Thạch Chân từng chữ một dõng dạc: “Lực khởi từ đất, quyền phát từ tâm, không rời đất dày, chẳng nhuốm bụi hồng.”
Khóe môi Mặc Chiếu không kìm được nhếch lên, nghiêng người tựa vào ghế mây, một tay chống cằm, nói: “Xuống núi rồi, đừng nói là đồ đệ ta.”
Thạch Chân: “Sư phụ sợ con gây chuyện ở ngoài làm hỏng danh tiếng của người à?”
Mặc Chiếu: “Vi sư sống quá lâu, người có thể gọi là bạn giờ chết gần hết rồi. Trái lại kẻ thù thì đời nối đời, con cháu đầy đất bảy châu, đông đúc lắm, đủ mọi chủng tộc.”
Thạch Chân như bừng tỉnh, vô cùng bội phục tầm nhìn xa trông rộng của sư phụ, lập tức cam đoan: “Sư phụ yên tâm, đồ nhi xuống núi rồi sẽ xem như chưa từng có vị sư phụ nào là người!”
Mặc Chiếu bật cười, vung tay áo một cái, trước mắt Thạch Chân chợt lóe lên, sau lưng lạnh toát, nàng đã bị ném ra ngoài kết giới hồ nước trong nháy mắt, trước mặt chỉ còn lại một vách đá khổng lồ phủ kín dây leo, dưới chân còn có một bọc hành lý to, bên trong nhét đầy thịt khô Tiểu Ất đã phơi sẵn.
Thạch Chân hoảng hốt, đập vách đá lớn tiếng gào: “Sư phụ! Người già rồi có phải quên gì rồi không?!”
Giọng Mặc Chiếu vọng ra từ sau vách đá: “Ngươi không có linh mạch linh căn, pháp khí hay bảo khí của vi sư đều dùng không được, cho ngươi cũng chỉ phí phạm.”
Thạch Chân: “…Ít nhất cũng cho con một con vật cưỡi chứ?”
“Đám heo, bò, lừa trên núi bị ngươi ăn sạch rồi.”
Thạch Chân nghiến răng: “Vậy ít ra cũng cho chút tiền chứ?!”
Lần này, Mặc Chiếu hoàn toàn im bặt, giả chết luôn.
Thạch Chân nằm úp trên vách đá nghe ngóng hồi lâu, rồi lại giơ nắm đấm chửi rủa dây leo một trận, thấy Mặc Chiếu quyết tâm một xu cũng không nhả, đành bất đắc dĩ đeo bọc hành lý, cất bước xuống núi.
Chỉ đến khi bóng lưng Thạch Chân hoàn toàn biến mất, dây leo trên vách đá mới rụng xuống, sơn bích hóa thành kết giới hồ nước. Mặc Chiếu tay cầm chiếc ô đứng giữa hồ, đôi mắt tím ánh nước, long lanh lấp lánh.
Tiểu Ất và Tiểu Giáp đứng phía sau, hai bông hoa nhỏ trên đầu đều rũ xuống như muốn khóc. Một đứa đầu hiện chữ “Hu hu hu hu hu hu hu”, đứa kia là “Oa oa oa oa oa oa”.
Mặc Chiếu mở tay, trong lòng bàn tay nổi lên một chiếc lá liễu dài mảnh, là tín vật do cha mẹ của Thạch Chân gửi nhờ Hiên Viên trưởng lão mang đến vài ngày trước. Trên đó ghi chép rõ ràng “Văn cầu nguyện minh tâm thành thật” mà trưởng lão thôn Nhung Nhung đã gửi tặng nàng khi nàng mới phá kén chào đời:
【Nguyện cho đứa trẻ này: đất nứt không gãy lưng, trời sập không nhụt chí, vạn kiếp không nhuốm lòng, bước khắp bụi trần vẫn ôm lòng chân thật.】
*
Tiểu kịch trường
Mặc Chiếu hừ cười: “Bớt mấy câu giả lớn giả cao kiểu đất nứt trời nghiêng vạn kiếp hồng trần đi. Theo ta thì, chỉ một miếng thịt nướng, là đủ dụ con nhóc kia chạy theo rồi.”
***