Mộng hồi Tây Châu – Chương 88

Chương 88: Ngọc Mỹ Nhân (6)

***

Ngự uyển có ba hồ lớn là Đông Hải, Bắc Hải và Nam Hải. Bắc Hải là hồ gần hậu cung nhất, sâu hơn một trượng. Vì đang giữa mùa đông, ven bờ phủ đầy tuyết đọng, mặt hồ đóng băng, lờ mờ có thể thấy bóng cá lớn đen sì lượn lờ bên dưới lớp băng.

Phía tây hồ, trên mặt băng vỡ ra một hố lớn, thi thể của Lâm Hạc Niên đã được vớt lên, còn ướt nhẹp, đặt trên nền tuyết ven bờ, có hai nội thị canh giữ.

Hải Triều từ xa đã trông thấy, trong lòng thầm may mắn mình chưa kịp dùng bữa, bằng không e rằng lại nôn sạch những gì ăn vào.

Thi thể tuy chưa kịp trương phồng, nhưng nửa gương mặt đã bị cá rỉa loang lổ, môi mất gần hết, có chỗ thậm chí lộ cả xương; nửa còn lại cũng máu thịt nhoe nhoét.

Phùng thái giám vừa thấy đã kinh hãi, vội bước lên chặn trước mặt Hải Triều: “Thi thể này quá mức khó coi, xin công chúa tránh đi kẻo nhiễm bẩn tôn nhan.”

“Không sao, đừng làm quá lên, ta không sợ.” Hải Triều vừa nói vừa cùng Lương Dạ tiến đến gần thi thể.

Trải qua hai lần vào bí cảnh, nàng đã không còn kinh hoàng như trước, cảnh tượng mức này chưa đủ để khiến nàng chùn bước.

Lương Dạ cúi xuống xem xét kỹ: “Vết chí mạng ở cổ, cũng như Tống quý phi, là bị cắt đứt cổ họng mà chết.”

Hải Triều khó hiểu: “Lâm Hạc Niên mất tích từ nửa đêm hôm qua, tính ra mới nửa ngày, sao mặt đã bị rỉa đến thảm như vậy? Trong hồ này nuôi thứ cá gì?”

Phùng thái giám quay sang hỏi tiểu thái giám đang canh giữ: “Ngươi là người trông coi Thượng Lâm uyển sao? Công chúa hỏi ngươi đấy.”

Tiểu thái giám đáp: “Bẩm quý chủ, phò mã, Phùng công công, trong hồ Bắc Hải nuôi cá vược, cá trê, cá chuối, đều hung dữ ăn thịt, có đến mấy trăm con. Nhưng chỉ nửa ngày thì không đến mức rỉa nát mặt người thế này.”

Lương Dạ vén áo thi thể: “Trên cánh tay và trước ngực có vết rạch, mặt mũi và cổ cũng bị dao cứa ra nhiều miệng máu, mùi tanh dẫn lũ cá đến, chúng rỉa từ vết thương, nên chỉ mấy canh giờ đã thành thế này.”

Hắn đứng dậy, hỏi một nội thị khác: “Thi thể là ai phát hiện?”

Người kia đáp: “Bẩm phò mã, là nô tài phát hiện. Nô vốn trực ở Thượng Lâm uyển, sáng nay theo lệ đục băng thả lưới bắt cá dâng Thượng thực cục, lưới vướng phải thứ gì to nặng khác thường. Nô thấy không ổn, bèn gọi thêm người, cùng nhau dùng câu sắt móc lên, ai ngờ lại là một xác chết!”

Khi kể lại, hắn dường như vẫn còn hãi hùng, run rẩy như sàng gạo.

Lương Dạ gật đầu, lại hỏi một thái giám quản sự: “Có thể xác nhận đây đúng là thi thể Lâm Hạc Niên?”

Thái giám kia đáp: “Bẩm phò mã, áo quần và thẻ bài đều đúng, trong cung cũng không có thái giám nào khác thất lạc, chắc chắn không sai.”

“Đã tìm được hung khí chưa?” Lương Dạ lại hỏi.

Thái giám đáp: “Chắc chìm dưới đáy hồ, nước quá lạnh, không ai xuống được, chỉ có thể dùng sào tre thăm dò, túi lưới vớt, tạm thời chưa thấy.”

Lương Dạ gật đầu: “Nếu tìm thấy, lập tức bẩm báo.” Rồi quay sang Phùng thái giám: “Phiền công công cho rà soát lại toàn bộ nội thị trong cung, cả kẻ không trực, hoặc ở ngoài cung, kẻo lẫn lộn thân phận.”

Phùng thái giám nói: “Phò mã nói phải, đó vốn là bổn phận của lão nô.”

Ông lập tức sai người đưa thi thể đến nhà xác, rồi đuổi hai thái giám kia đi. Đoạn quay sang hỏi Lương Dạ: “Phò mã, lẽ nào Lâm Hạc Niên cũng giống Quý phi, là tự vẫn mà chết?”

Lương Dạ đáp: “Thi thể bị cá rỉa, vết thương lại ngâm nước, vết dao nguyên vẹn không nhiều, nhưng xét từ dấu vết còn lại, hẳn là tự mình ra tay.”

Phùng thái giám thở dài: “Tưởng đâu tìm được Lâm Hạc Niên thì có thể hỏi ra điều gì, ai ngờ ngay cả hắn cũng chết rồi.” Ông hạ giọng: “Chẳng lẽ thật là do tượng ngọc kia…”

Lương Dạ: “‘Tử bất ngữ quái lực loạn thần*’, ta không dám đoán càn.”

*Câu nói của Khổng Tử, muốn nói ông không bàn chuyện huyền hoặc, kỳ dị, quỷ thần mà đặt trọng tâm ở nhân đạo, luân lý, và việc thực tế trong đời sống.

Phùng thái giám gật đầu: “Giờ không còn sớm, mời công chúa và phò mã sang Sùng Phúc điện dùng bữa.”

Nghe ông ta nhắc, Hải Triều mới nhận ra bụng đã đói cồn cào, nàng liếc hồ nước: “Chỉ sợ mấy ngày nay ta chẳng thể ăn nổi cá thịt.”

Phùng thái giám cười khổ: “Chẳng riêng công chúa, ngay cả lão nô cũng không ăn nổi. Để lão nô sai truyền Thượng thực, hôm nay chỉ dọn trà thanh, bánh ngọt, rau quả thanh đạm, được chăng?”

Lương Dạ gật đầu: “Phùng công công thật chu toàn.”

Phùng thái giám mỉm cười.

Trở lại Sùng Phúc điện, vừa xuống kiệu, Hải Triều liền nghe có người cất tiếng gọi: “Tiểu Thất!”

Nàng sững lại, mới hiểu là gọi mình, lập tức quay đầu nhìn, thấy một nữ tử độ đôi mươi, vận áo đỏ, váy gấm màu nghệ, tay xách váy nhanh nhẹn từ điện bước xuống.

Phùng thái giám mỉm cười: “Thì ra là Thọ Dương công chúa tới.”

Lại thêm một người nhận ra nàng, Hải Triều lập tức căng thẳng, sợ lộ sơ hở.

Trong lúc luống cuống, nữ tử kia đã bước đến trước mặt, giơ tay búng nhẹ lên trán nàng: “Sững sờ gì thế? Ngay cả A tỷ mà cũng không nhận ra?”

Hải Triều đáp: “Ta đang ngắm A tỷ, thấy A tỷ thật xinh đẹp.”

Câu ấy cũng chẳng phải giả, vị công chúa này môi hồng răng trắng, đôi mắt phượng hơi hếch đầy thần thái, quả là một mỹ nhân khiến người phải kinh diễm.

Thọ Dương công chúa lại véo má nàng: “Con bé này, mới xuất giá mấy hôm, miệng đã khéo thế rồi.”

Nàng vừa nói vừa liếc Lương Dạ, khẽ nghiêng đầu, trong mắt đầy vẻ trêu chọc: “Chẳng lẽ bị phò mã dạy hư rồi?”

Mặt Lương Dạ không chút biểu cảm, bước lên hành lễ.

Khóe mắt Hải Triều thoáng thấy sắc mặt Lương Dạ hơi lạnh, vội vàng nói: “Phò mã là người đứng đắn.”

Thọ Dương công chúa lại đổi tay bóp má nàng: “Ý muội là nói A tỷ không đứng đắn ư?”

Mặt Hải Triều bị nàng nắn đến biến dạng, vội vàng cầu xin tha thứ: “Không dám, không dám.”

Thọ Dương công chúa bóp đến khi gương mặt nàng ửng đỏ mới chịu buông tay: “Khuôn mặt nhỏ ngày càng mượt mà bóng bẩy, dưỡng thế nào vậy?”

Hải Triều nhớ đến thứ cung nhân bôi cho mình buổi sáng: “Là phấn dưỡng da và hoa nhài, A tỷ có cần không? Ta sai người đưa vài hộp sang cho tỷ.”

Thọ Dương công chúa liếc Lương Dạ đầy ẩn ý, rồi nháy mắt với Hải Triều: “A tỷ đây thiếu gì son phấn sao?”

Hải Triều ngẩn ra một chốc, mới hiểu nàng ám chỉ điều gì, mặt lập tức nóng bừng.

Thọ Dương công chúa “a” một tiếng: “Sao vừa mới gả đi đã trở nên e thẹn thế này? Xem kìa, tai đỏ ửng cả rồi.”

Hải Triều không dám tùy tiện đáp lời, xem thái độ thân mật của Thọ Dương công chúa thì hai tỷ muội vốn rất gần gũi, nàng càng nói nhiều càng dễ lộ sơ hở.

Nàng vội đánh trống lảng: “Đúng rồi, A tỷ sao lại đến đây?”

Thọ Dương công chúa: “Nghe nói vị ở Lâm Tiên điện xảy chuyện, ta vào cung thăm phụ hoàng. Nhưng phụ hoàng bảo đau đầu, không muốn gặp ai, ta đành ra ngoài thôi.”

Hải Triều chỉ mong nàng chóng đi, ai ngờ đôi mắt kia đảo một vòng, vỗ nhẹ vai nàng: “May sao gặp được Tiểu Thất, cũng không uổng công một chuyến. Nói xem, đã bao lâu rồi không đến chỗ ta?”

Hải Triều ấp úng: “Gần đây hơi bận… để hôm khác ta đến thăm A tỷ.”

“Đừng nói hôm khác.” Thọ Dương công chúa nói, “Ngày mai phủ ta có yến tiệc, tỷ muội chúng ta hiếm khi được vui một bữa.”

Hải Triều thật chẳng muốn tham dự yến hội nào hết. Người gặp càng nhiều, càng dễ lộ sơ suất. Nàng vội tìm cớ: “Nhưng Tống quý phi vừa gặp chuyện, không hợp lắm đâu. Nếu phụ hoàng biết được…”

Thọ Dương công chúa khinh khỉnh, “xì” một tiếng: “Từ bao giờ muội lại nhát gan thế? Yến tiệc vốn định sẵn từ trước. Họ Tống kia chẳng qua chỉ là cô nhi, nhờ có chút nhan sắc mà đã dương dương tự đắc đến nỗi quên mất tên họ. Nàng ta chết không phải lúc cũng xứng để ta dời yến sao?”

Xem ra hai tỷ muội này vốn chẳng hợp với Tống quý phi, nhưng Hải Triều không thể hùa vào cùng oán hận, đành lảng đi.

Thọ Dương công chúa dùng khuỷu tay khẽ chạm nàng, rồi thần bí ghé sát tai, song cố ý dùng giọng to đủ cho mọi người nghe: “Đến đi, A tỷ mới được mấy mỹ nhân, nam nữ đều có. Có một thiếu niên người Hồ cực đẹp, mũi cao mắt sâu, da trắng hơn tuyết, đôi mắt xanh biếc như sóng trời quang. Muội chẳng phải vẫn thích thiếu niên người Hồ nhân? Đến xem thử, ưng ý thì mang về, bảo đảm hưởng không hết.”

Hải Triều vừa nghe vừa liếc trộm Lương Dạ, thấy đôi mắt hắn càng lúc càng lạnh, gương mặt như phủ một tầng sương giá, nàng vội lắp bắp: “Ta… ta thôi vậy… để A tỷ tự mình hưởng là được rồi.”

Thọ Dương công chúa hận sắt không thành thép, giữ lấy mặt nàng, lần này thì thật sự áp sát tai, dùng hơi thở khẽ nói: “Xem cái bản lĩnh của muội kìa. Mới cưới mấy hôm đã bị người ta nắm trong lòng bàn tay. Ngày mai nhất định qua đây, A tỷ sẽ dạy muội vài chiêu.”

“Ta không phải…” Hải Triều lí nhí.

Thọ Dương công chúa sầm mặt: “Nói định rồi. Ngày mai phải đến, nếu không tức là coi thường A tỷ.”

Nói đến mức này, chối ngay tại chỗ thì là bất kính, Hải Triều chỉ còn cách gật đầu.

Thọ Dương công chúa liếc Lương Dạ, khẽ nheo mắt: “Nếu phò mã có rảnh, cũng có thể cùng Tiểu Thất qua.”

Lương Dạ lễ phép đáp tạ, nhưng ánh mắt lại lạnh buốt như băng, hệt như muốn khoan hai lỗ trên mặt đối phương.

Đợi Thọ Dương công chúa rời đi, Hải Triều và Lương Dạ sang phối điện dùng bữa, thì mặt trời đã ngả tây.

Hung khí chưa mò thấy, thợ tạc tượng ngọc trong thời gian ngắn chưa tra ra được, tiếp tục nán lại trong cung cũng vô ích.

Trong lòng Hải Triều vẫn canh cánh lo cho Lục Uyển Anh và Trình Hàn Lân, bèn sửa soạn hồi phủ. Phùng thái giám đưa họ ra tận trước kiệu.

Hai người vừa định lên kiệu, bỗng một cung phi mỹ lệ, theo sau hai tỳ nữ, từ cửa lớn bước vào.

Hải Triều vô tình liếc mặt nàng, trong lòng chợt dâng lên cảm giác quái dị, nửa dưới gương mặt nữ tử ấy lại giống tượng ngọc kia đến bảy tám phần.

Nữ tử kia vừa thấy nàng, bước chân thoáng khựng, trên mặt hiện vẻ kinh hoàng, vội cúi gằm, chậm rãi bước lên, hành lễ nhỏ nhẹ như tiếng muỗi: “Tham kiến công chúa, phò mã.”

Hải Triều nhìn thái độ của nữ tử ấy, biết thường ngày ắt không được công chúa đối xử tử tế, nên chỉ lạnh nhạt gật đầu, không nói thêm gì, rồi đưa tay để Lương Dạ dìu lên kiệu.

Nữ tử kia như được tha tội, hành lễ một cái, tiếp tục bước vào trong điện.

Hải Triều trông dáng vẻ nàng co rúm vai, dè dặt leo theo bậc thang phía tây, bất giác hiếu kỳ không rõ người này là ai.

Phùng thái giám như tự lẩm bẩm cảm khái: “Tiết ngự nữ này là kẻ thông minh, tiền đồ chỉ e không thể hạn lượng.”

“Xuất thân nàng ta thế nào? Trong cung mỹ nhân nhiều quá, ta chẳng nhớ nổi.” Hải Triều hỏi.

Phùng thái giám đáp: “Tiết ngự nữ là ái nữ của huyện lệnh Vân Dương.”

Trong mắt công chúa, huyện lệnh chẳng qua chỉ là thứ quan nhỏ như hạt mè, Hải Triều âm thầm đoán định, khẽ bĩu môi: “Chẳng trách một thân nghèo kém.”

Phùng thái giám nói tiếp: “Nói ra thì nàng ta với Vạn chiêu nghi có quan hệ thân thích xa. Tính theo vai vế, phải gọi Vạn chiêu nghi một tiếng ‘biểu di mẫu’.”

Trong lòng Hải Triều chửi thầm một câu “cẩu hoàng đế chẳng phải người”, ngoài mặt lại tỏ vẻ chán ghét y như thật: “Bảo nàng ta cẩn thận một chút, chớ đi vào vết xe đổ của vị biểu di mẫu ấy.”

Phùng thái giám khẽ cười: “Công chúa nói chí phải.”

Rời khỏi hậu cung, hai người đổi sang xe ngựa của phủ công chúa.

Màn xe xuống, Hải Triều mới thở phào một hơi, người uể oải ngả vào vách thùng, gần như rã rời cả thân thể.

Đóng vai công chúa thật mệt mỏi, nàng thà ra biển đánh cá suốt một ngày còn hơn.

Nghỉ chốc lát, xe đã ra khỏi cửa cung, đi vào đại lộ Chu Tước. Chung quanh người ngựa huyên náo, không lo bị người ngoài nghe thấy, Hải Triều mới mở lời: “Vụ này thật quá lạ. Ai tự sát mà lại tự rạch mình thê thảm như vậy? Chẳng lẽ thật sự là tượng ngọc tác quái?”

Lương Dạ gật đầu: “Hẳn không thoát khỏi có liên quan. Nếu lời Phùng thái giám là thật, thì Vạn chiêu nghi và Tống quý phi là cùng một loại người, hạng người như vậy thường sẽ không dễ dàng tìm cái chết. Nhưng xem tình trạng tử vong của Tống quý phi, rõ ràng đúng là tự vẫn, vậy thì chỉ còn một khả năng.”

Hắn dừng một chút, rồi nói chậm rãi: “Tuy ra tay là chính bọn họ, nhưng cái chết lại chẳng phải ý chí bản thân… giống như… bị thứ gì đó đoạt xác vậy.”

***

Chương tiếp theo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *