Chương 87: Ngọc Mỹ Nhân (5)
***
Bức tượng ngọc kia càng nhìn càng thấy cổ quái, cánh tay Hải Triều nổi đầy da gà, vội vàng dời ánh mắt, hỏi Phùng thái giám: “Tượng ngọc này từ đâu mà có?”
Phùng thái giám do dự một lúc mới nói: “Mười hai năm trước, tiên Hoàng hậu quy tiên, Thánh nhân thương tâm quá độ, không sao nguôi ngoai được, bèn lệnh thợ khéo chạm khắc bức tượng ngọc này theo dung nhan nương nương khi sinh tiền, kích thước bằng người thật, để ký thác tình hoài tưởng niệm.”
Hải Triều lấy làm lạ: “Vậy vì sao Vạn chiêu nghi lại muốn đập nát tượng ngọc?”
Phùng thái giám lộ vẻ khó xử: “Trước khi xảy ra chuyện, Vạn chiêu nghi vốn là Vạn quý phi, tính tình có chút nóng nảy. Sau khi nhập cung lại được độc sủng, chẳng đầy hai năm đã được phong Quý phi, tất nhiên khó tránh kiêu căng phóng túng…”
Hải Triều vẫn chẳng hiểu: “Nhưng sống sờ sờ còn đi ghen với một bức tượng vô tri thì có nghĩa lý gì?”
Ánh mắt Phùng thái giám chợt né tránh, đỏ mặt nói: “Thánh nhân thương tâm vì mất ái thê, từ khi có tượng ngọc thì đặt trong tẩm điện, ngày ngày làm bạn. Dù có triệu hạnh các phi tần khác cũng đều ở phối điện, đêm xuống nhất định cùng tượng ngọc đồng sàng mà ngủ…”
Hải Triều nghe đến đây thì rợn tóc gáy, thầm nghĩ vị hoàng đế này quả có bệnh! Nếu thật tình si thì đã chẳng cùng kẻ khác hoan lạc, hết đêm nay với người này, lại quay sang tượng ngọc giả vờ sâu tình, nàng mà là tượng ngọc thì cũng hóa thành oán quỷ cho xem.
Có lẽ thấy sắc mặt nàng khó coi, Phùng thái giám bèn chữa lời: “Cũng bởi Thánh nhân đối với tiên Hoàng hậu một lòng sâu nặng… Nhưng tính tình Vạn quý phi vốn không chịu khuất dưới người, Thánh nhân vì tưởng nhớ nguyên phối mà nhiều năm không chịu lập hậu, khiến ngôi vị hoàng hậu vẫn bỏ trống. Vạn quý phi dã tâm ở ngôi hậu, không dám phỉ báng tiên Hoàng hậu, bèn trút giận lên tượng ngọc này…”
Ông ta ngừng lại, rồi nói: “Trong cung lại có kẻ buông lời gièm pha, lén lút gọi tượng ngọc ấy là ‘Ngọc Hoàng hậu’. Vạn quý phi càng coi nó như cái gai trong mắt, nói nó là yêu vật mượn dung nhan tiên Hoàng hậu để mê hoặc quân vương.”
Nghe đến đây, Hải Triều thấy Vạn quý phi không hẳn là ngu dại, còn biết mượn cờ hiệu làm lá chắn. Nhưng nàng chợt chau mày: “Nàng ta biết rõ phụ hoàng coi trọng tượng ngọc kia như vậy, sao còn dám đánh vỡ? Chẳng lẽ không sợ phụ hoàng nổi giận ư?”
Phùng thái giám đáp: “Công chúa nói phải. Dẫu có gan to bằng trời, Vạn quý phi cũng không dám cố ý làm vỡ tượng ngọc. Thường ngày Thánh nhân không cho phi tần chạm vào, đến nhìn cũng chẳng cho. Vạn quý phi tự cho mình khác hẳn những tần phi tầm thường, một hôm nhân lúc Thánh nhân không có mặt, lại say rượu mà xông vào nội điện. Vốn chỉ muốn nhìn một cái, ai ngờ cung nhân nội giám hoảng hốt ngăn cản, càng khiến nàng tức giận. Nàng rút roi ngựa đánh bọn cung nhân, rồi xông thẳng vào điện. Vừa thấy tượng ngọc, thù mới hận cũ cùng dâng, liền vung roi quất một cái… Nghe cung nhân nói, roi ấy vốn chẳng nặng, vậy mà tượng ngọc đang nằm yên giữa giường, phủ gấm thêu tinh xảo, lại lăn xuống đất…”
Hải Triều ngạc nhiên: “Dù có lăn xuống thì giường cũng thấp, cạnh giường còn trải thảm, sao lại vỡ được?”
Phùng thái giám thở dài: “Kỳ lạ chính ở chỗ đó. Không ai biết tại sao, chỉ nghe một tiếng ‘choang’, tượng ngọc vỡ thành mảnh vụn. Có lẽ bởi nó vốn không phải liền khối, mà do hai lớp ngọc ghép lại, nên vô cùng giòn mỏng.”
Hải Triều gật gù: “Thì ra là rỗng ruột. Ta đã nói rồi, tạc cả người to thế này mà dùng nguyên khối ngọc thì quá xa xỉ.”
Phùng thái giám chưa kịp nói tiếp, Lương Dạ khẽ hắng giọng.
Hải Triều lại hỏi: “Sau khi tượng ngọc bị phá, phụ hoàng có nổi giận không?”
Phùng thái giám gật đầu: “Thánh nhân giận dữ vô cùng, lệnh cho thợ khéo gắn lại những mảnh vỡ, đồng thời hạ chỉ giáng Vạn quý phi xuống làm Chiêu Nghi, bắt giam lỏng một tháng, sai nàng chép kinh cầu phúc cho tiên Hoàng hậu. Ấy cũng là nể tình nhà họ Vạn ba đời công thần nên mới lưu chút thể diện.
“Nhưng từ sau khi đập tượng, Vạn chiêu nghi như biến thành kẻ khác. Vốn kiêu căng ngang ngược, nay lại thành kẻ nghi thần nghi quỷ, lén lút run rẩy, suốt ngày kéo cung nữ kể rằng tượng ngọc có quỷ, đòi mạng nàng. Mọi người trong cung chỉ cho rằng nàng ta thất thế nên điên loạn. Nào ngờ chưa đầy một tháng, Vạn quý phi thật sự chết, cũng giống như Tống quý phi bây giờ, trên mình toàn là vết nứt máu hệt như vỡ vụn, chỉ khác là không phải cắt cổ mà chết…”
“Thế là chết thế nào?” Hải Triều hỏi.
Phùng thái giám đáp: “Là dùng chính dải lụa thắt lưng mà siết chết mình.”
“Không mượn ngoại lực sao?” Lương Dạ lại hỏi.
Phùng thái giám lắc đầu, vẻ mặt trầm trọng.
Con người sao có thể tự mình siết bản thân đến chết? Hải Triều bất giác thấy lạnh sống lưng.
Nàng lại liếc nhìn tượng ngọc, thấy càng thêm tà khí, ngay cả khóe môi hơi nhếch kia cũng tựa như chứa ý ác độc.
“Cho dù Vạn chiêu nghi có mạo phạm tượng ngọc, vậy còn người kia thì sao?” Hải Triều nói, “Chẳng lẽ nàng ta cũng từng đắc tội với tượng này?”
Phùng thái giám khổ sở cười: “Có tiền lệ của Vạn chiêu nghi, dẫu cho Tống quý phi có được một trăm cái gan, cũng chẳng dám động vào tượng ngọc nữa. Huống hồ, từ sau khi tượng ngọc được gắn lại, Thánh nhân liền xây một tòa tiểu Phật đường sau tẩm điện để đặt nó, ngày ngày thỉnh cao tăng tụng kinh cầu phúc, hóa giải oán khí. Người biết chuyện này chỉ đếm trên đầu ngón tay, Tống quý phi căn bản chẳng hay tượng ngọc hiện ở đâu.”
“Đã chẳng liên can gì, vậy sao tượng ngọc lại tìm đến nàng ta?” Hải Triều nghi hoặc nhìn Lương Dạ.
“Dung mạo Tống quý phi và Vạn chiêu nghi có điểm nào tương đồng chăng?” Lương Dạ hỏi.
Phùng thái giám suy nghĩ chốc lát rồi đáp: “Nếu nói là có điểm chung, thì một là cả hai đều được phong Quý phi, cùng ở trong Lâm Tiên điện; hai là dung nhan đều có vài phần giống tiên Hoàng hậu.”
Lương Dạ gật đầu: “Có thể cho ta xem kỹ tượng ngọc không?”
Phùng thái giám cúi mình: “Xin mời Phò mã.”
Lương Dạ bước đến gần tượng ngọc, khẽ vén mái tóc, Hải Triều cũng ghé mắt nhìn, lập tức cảm thấy tê dại da đầu.
Vừa rồi nàng còn lấy làm lạ vì sao tóc lại gắn chặt trên tượng ngọc, nào ngờ hóa ra nguyên là cả một mảng da đầu bị bóc xuống, dán lên bằng keo, chế tác tinh vi đến mức ngay viền chân tóc cũng được xử lý gọn gàng, thoạt nhìn chẳng ai nhận ra.
Chỉ nghĩ đến việc hoàng đế suốt mấy năm trời đêm nào cũng ôm vật này mà ngủ, Hải Triều đã nổi da gà cả người.
Phùng thái giám đưa mắt nhìn Lương Dạ: “Phò mã có nhìn ra điều gì chăng?”
Lương Dạ chau mày, chỉnh lại tóc cho tượng ngọc: “Tượng ngọc này là ai tạc?”
Phùng thái giám ngạc nhiên: “Là thợ trong cung, sao Phò mã lại hỏi vậy?”
Lương Dạ đáp: “Ta muốn hỏi hắn vài câu. Có thể tra ra người đó không?”
Phùng thái giám: “Trong Thiếu phủ giám hẳn còn lưu hồ sơ, lão nô lập tức cho người tra, chỉ là hồ sơ cũ nát, e tra xét sẽ mất ít nhiều thời gian, xin Phò mã chờ một hai ngày.”
Lương Dạ gật đầu: “Đa tạ Phùng công công.”
Phùng thái giám lại hỏi: “Công chúa và Phò mã còn có điều gì thắc mắc chăng?”
Lương Dạ nhìn thoáng qua tượng ngọc trên giường, lắc đầu: “Nếu sau này có thêm manh mối, e còn phải phiền đến công công.”
“Phò mã nói quá lời.” Phùng thái giám cúi đầu, “Công chúa và Phò mã có điều gì, cứ việc phân phó lão nô.”
Vừa nói, ông ta vừa cẩn trọng buông màn trướng xuống, chỉnh sửa đâu ra đấy, tựa như trong đó thật sự đang nằm một vị hoàng hậu tôn quý.
Ba người cùng rời khỏi Phật đường, Hải Triều nói: “Chúng ta đi Dịch đình chọn mỹ nhân thôi.”
Phùng thái giám mỉm cười đáp ứng, sai tiểu thái giám chuẩn bị kiệu đưa hai người đến Dịch đình.
Lần này, Hoa Điểu sứ từ Giang Nam tiến cống mỹ nhân tổng cộng hơn hai mươi người, đều lựa theo bức họa của tiên Hoàng hậu. Có người giống ở nét mày mắt, có kẻ giống nửa gương mặt, có người lại giống thần thái; chẳng phải cùng một khuôn mà khắc ra, nhưng đều có đôi phần tương tự.
Trong số đó, lớn nhất cũng chỉ mười tám, mười chín, nhỏ nhất mới mười bốn tuổi, xếp thành một hàng dài đứng giữa sân, dung nhan tươi đẹp rạng rỡ hơn cả hoa mai dưới tuyết.
Những nụ hoa non tơ ấy, lại bị hái khỏi cành, cắm vào bình vàng, từ nay chỉ còn chờ ngày héo úa mà thôi.
Hải Triều vừa thấy buồn cười lố bịch, vừa thấy quặn lòng, nhưng điều nàng lo hơn hết chính là an nguy của Lục tỷ tỷ, nên vội vã đi từ đầu hàng đến cuối hàng, song không thấy bóng dáng Lục Uyển Anh.
Một nỗi thất vọng nặng tựa núi đè xuống ngực. Lục tỷ tỷ sao lại không ở đây? Chẳng lẽ nay đã trở thành một trong số phi tần hậu cung của hoàng đế? Trễ thêm một ngày tìm được nàng, là thêm một ngày nàng gặp nguy hiểm.
“Các mỹ nhân đều ở đây cả chứ?” Hải Triều hỏi Phùng thái giám.
Phùng thái giám quay sang chất vấn tên thái giám dẫn người tới: “Công chúa hỏi ngươi kìa.”
Trên mặt thái giám kia thoáng hiện vẻ do dự, Hải Triều lập tức quát: “Mau thành thật khai ra, không được giấu ta!”
“Nô… nô không dám.” Tên thái giám sợ hãi run rẩy, quỳ sụp xuống đất, “Có… có một vị mỹ nhân, chẳng rõ là do không quen thủy thổ hay thế nào, từ sáng nay phát ban, cả mặt đỏ tấy sưng phù, hiện giờ được để riêng trong một gian phòng nghỉ. Nô lo rằng nàng ta thất lễ trước mặt quý chủ, cho nên…”
Hải Triều nghe đến đây thì mừng thầm. Sáng nay họ mới vào bí cảnh, vị mỹ nhân kia đúng lúc phát ban, tất nhiên là Lục tỷ tỷ cố ý dùng dược vật gì đó!
Nàng gắng sức kìm nén niềm hân hoan, chỉ khẽ nhướng mày: “Ta không tin. Mau đưa nàng ta ra đây cho ta xem.”
Phùng thái giám nói: “Công chúa, vị mỹ nhân ấy chẳng rõ là thủy thổ không hợp hay mắc bệnh gì, cũng không biết có lây hay không…”
Hải Triều nghĩ một thoáng, rồi cố ý tỏ vẻ phật ý, hừ lạnh một tiếng: “Sao phát ban không sớm chẳng muộn, lại đúng lúc ta muốn tuyển người thì phát ban? Rõ ràng các ngươi cố ý giấu đi kẻ đẹp nhất!”
Phùng thái giám và tên thái giám đều một mực kêu oan, song Hải Triều vẫn không buông, khăng khăng đòi gặp mỹ nhân bệnh kia.
Chính lúc này, nàng mới thật sự thấm thía được lợi ích của việc làm công chúa, dẫu Phùng thái giám là cận thần của thiên tử, nhưng chung quy vẫn mang danh nô bộc. Nàng càng kiên quyết, ông ta chỉ có thể nghe lệnh.
Chẳng bao lâu, thái giám kia dẫn bệnh mỹ nhân ra.
Hải Triều chưa kịp nhìn rõ dung nhan, chỉ thoáng thấy dáng hình, bước đi, đã lập tức nhận ra đó là Lục Uyển Anh.
Nàng suýt chút nữa mừng đến rơi lệ, cơ hồ không che giấu nổi, đành giả vờ ngáp dài, dùng tay áo che mặt, nhân tiện lau đi khóe mắt đang ươn ướt.
Lục Uyển Anh lại cúi đầu rụt rè, đến gần vẫn chẳng ngẩng lên, chứ đừng nói là nhìn bọn họ, hiển nhiên là sợ bị chọn trúng.
“Ngẩng đầu để ta nhìn thử.” Hải Triều nói.
Lục Uyển Anh nghe tiếng, lập tức ngẩng lên, trong mắt đầy vẻ kinh ngạc. Chỉ chốc lát, kinh ngạc biến thành mừng rỡ, hốc mắt cũng dần đỏ hoe.
Lúc này Hải Triều mới nhìn rõ mặt nàng, thấy từ má xuống cổ đều chi chít ban đỏ, cả khuôn mặt sưng húp, da căng đến nửa trong suốt, dù là giả thì hẳn cũng chẳng dễ chịu chút nào.
Hải Triều không thể để lộ vẻ thương xót, bèn làm như thờ ơ, buông giọng lẩm bẩm: “Thì ra thật sự nổi ban đỏ.”
Phùng thái giám cười gượng: “Công chúa đã xem qua, vậy để nàng ta lui xuống thôi, kẻo…”
Hải Triều cắt ngang, chỉ thẳng vào Lục Uyển Anh: “Ta chọn nàng ấy.”
Phùng thái giám cùng tên thái giám quản sự đều cả kinh: “Nhưng mà nàng ta…”
Hải Triều nói: “Chỉ là thủy thổ không hợp nên phát ban, gọi thái y kê đơn, bôi chút thuốc, vài ngày sẽ khỏi. Ta thấy mặt nàng đỏ hồng đáng yêu, nên muốn nàng ấy.”
Phùng thái giám cùng thái giám đưa mắt nhìn nhau, bất đắc dĩ nói: “Nếu công chúa thật sự muốn, chi bằng chờ vài ngày, đợi chữa trị xong rồi hãy…”
“Không cần, trong phủ ta cũng có thuốc, hôm nay ta mang nàng đi luôn.” Hải Triều rất dứt khoát.
Phùng thái giám chỉ đành quay sang Lục Uyển Anh: “Hợp nhãn công chúa ấy là phúc phận của ngươi. Từ nay phải tận tâm hầu hạ công chúa, chớ có lười biếng, biết chưa?”
Hải Triều thấy ông ta nói năng kẻ cả với Lục Uyển Anh thì không ưa, liền dịu giọng với nàng: “Ngươi về thu dọn chút đồ cần thiết, lát nữa theo ta hồi phủ.”
Chợt nghĩ trong lòng vẫn thấp thỏm, nàng lại quay sang Phùng thái giám: “Không được, ông cho người đưa nàng ấy thẳng về phủ ta trước, không cần đợi chúng ta.”
Lục Uyển Anh ngoan ngoãn hành lễ tạ ơn, Hải Triều nhân lúc mọi người không chú ý, kín đáo nháy mắt với nàng, Lục Uyển Anh mím môi khẽ cười.
Tìm được Lục tỷ tỷ rồi, trái tim treo lơ lửng của Hải Triều rốt cuộc cũng an ổn trở lại.
Công chúa đã chọn xong người, thái giám quản sự bèn cho giải tán đám mỹ nhân còn lại. Hải Triều bất giác liếc thấy thiếu nữ nhỏ tuổi nhất, thấy nàng cúi gằm, đôi môi run run, rõ ràng đang cố nhịn để khỏi bật khóc.
Qua hai lần vào bí cảnh, Hải Triều biết rõ, bất kỳ kẻ nào trông tầm thường cũng có thể là kẻ triệu dẫn yêu vật. Nếu tùy tiện động lòng trắc ẩn, ắt dễ sinh biến, nhưng nghĩ đến vận mệnh mờ mịt của cô gái này, nàng không nhịn nổi mà bật thốt: “Khoan đã!”
Phùng thái giám nghi hoặc nhướng mày.
Hải Triều chỉ vào thiếu nữ kia: “Người này ta cũng muốn.”
Nàng không thể cứu hết thảy, nhưng cứu được một người cũng là tốt rồi.
Phùng thái giám lộ vẻ khó xử: “Chuyện này…”
Hải Triều nói: “Phụ hoàng thương ta đến vậy, há lại tiếc một hai mỹ nhân? Phùng công công, ông nói có phải không?” Ngừng một thoáng, lại thêm: “Đợi lát nữa ta sẽ tự đi nói với phụ hoàng, tuyệt sẽ không để công công khó xử.”
Lời đã nói đến nước này, Phùng thái giám nào dám trái ý, liền sai thái giám quản sự sắp xếp, sớm đưa cả hai mỹ nhân đến phủ công chúa.
Được toại nguyện, Hải Triều cảm thấy tinh thần sảng khoái, đến cả ám ảnh từ tượng ngọc mang đến cũng nhạt đi nhiều.
Rời khỏi Dịch đình, Phùng thái giám nói: “Thánh nhân đã sai dọn sẵn ngự thiện tại Sùng Phúc điện, mời công chúa, phò mã đến dùng rồi hãy hồi phủ.”
Hai người từ sớm chưa kịp dùng bữa, bụng vốn trống rỗng, nhưng một buổi trưa nhìn xác chết rồi lại thấy tượng ngọc quỷ dị kia, ai nấy đều chẳng còn khẩu vị, chỉ là cơm do hoàng đế ban, tất nhiên không thể cự tuyệt.
Cả hai bước lên kiệu, đi về phía Sùng Phúc điện. Đi được nửa đường, bỗng một tiểu thái giám hốt hoảng chạy đến, ghé sát tai Phùng thái giám thì thầm mấy câu.
Sắc mặt Phùng thái giám lập tức biến đổi, quay sang Hải Triều và Lương Dạ: “Bẩm Công chúa Phò mã, trong hồ Bắc Hải của ngự uyển vừa phát hiện thi thể của Lâm Hạc Niên.”
***