Chương 80: Thôn Kén Nữ (kết thúc)
***
Hai người lặng im trong chốc lát, Hải Triều hỏi: “Ngươi định xử trí Hạ Miên thế nào?”
Hạ Lăng đáp: “Ta sẽ mang muội ấy cùng đi.”
Hải Triều mấp máy môi, song lại thôi.
Hạ Lăng như đoán được ý nàng, cười khổ: “Nói là trong lòng không còn khúc mắc thì không thể, nhưng ta không thể bỏ mặc muội ấy ở lại thôn. Huống chi, muội ấy thành ra như ngày nay, suy cho cùng cũng bởi vì…”
Trong mắt nàng thoáng hiện nỗi đau: “Sai chính là sai, A gia có tội thì chịu báo ứng là đáng, nhưng người rốt cuộc vẫn là phụ thân ta… Ta chỉ có thể dùng quãng đời còn lại để tận tâm chăm sóc A Miên, thay ông chuộc tội.”
Nàng dừng lại rồi nói khẽ: “Đây hẳn cũng là tâm nguyện của A nương.”
“Nhưng ngươi có từng nghĩ đến…”
“Có từng nghĩ A Miên là giả vờ?” Hạ Lăng tự mình ngắt lời, “Tất nhiên ta từng nghĩ, nhưng có gì khác biệt đâu? Nếu muội ấy giả vờ cả đời, thì khác nào là thật?”
Hải Triều nghẹn lời. Nàng phát hiện thiếu nữ này thấu triệt hơn mình tưởng, khác hẳn nương tử nhút nhát khi mới gặp ở cổng làng, chỉ một đêm đã lột xác, hoặc có lẽ bản chất nàng vốn kiên cường như thế.
Nàng do dự một thoáng, rốt cuộc vẫn hỏi: “Có một việc ta vẫn chưa hiểu, nghĩ đi nghĩ lại cũng chỉ có thể hỏi ngươi. Ngày hôm đó, khi rút thăm chọn Tằm Hoa Nương Nương, ngươi có cố ý rút trúng A Miên không?”
Hạ Lăng ngạc nhiên: “Sao tiểu nương tử sao lại hỏi vậy?”
Hải Triều: “Ta biết Hạ Cẩm đã giở trò trong thẻ tre, sắp đặt để ngươi rút trúng A Miên. Nhưng A Ế đã lặng lẽ đổi thẻ, theo lý mà nói, ngươi đáng lẽ phải rút trúng chính mình.”
“Không phải ta.” Hạ Lăng lắc đầu, “Khi ấy ta đã quyết rồi, dù thế nào cũng không thể để A Miên làm Tằm Hoa Nương Nương. Tin hay không tùy ngươi.”
“Ta tin ngươi.” Hải Triều nói, “Chỉ là vẫn chưa rõ…”
Hạ Lăng chau mày, trầm ngâm rồi cúi mắt, khẽ thốt: “Ta đoán là A nương…”
Hải Triều chấn động, nhưng ngẫm lại thì quả thực đó là lời giải thích hợp lý nhất.
Vậy nên sau khi rút thăm, thái độ của Hạ La đối với Hạ Lăng mới trở nên lạnh nhạt đến thế. Bà chỉ biết mình từng giở trò, nhưng không biết A Ế cũng đã đổi thẻ, cuối cùng trớ trêu lại hại đúng nữ nhi.
Hạ Lăng cười thảm: “Chẳng trách sau ngày rút thăm, A nương không còn đoái hoài đến ta…”
Hải Triều thương xót cho nàng, song chẳng biết nên an ủi thế nào, chỉ đành đổi đề tài: “Rời khỏi thôn rồi, các ngươi định đi đâu?” Hạ Lăng đáp: “Chúng ta có tay có chân, chỉ cần chịu khó, ắt sẽ tìm được chỗ dung thân. Trong thôn dựa vào câu dâu ngũ sắc và giống thần tằm, nhưng tằm thường chúng ta cũng nuôi được, nghề dệt lụa còn đó. Tiểu nương tử không cần lo lắng.”
Hải Triều gật đầu.
Đúng lúc ấy, ngoài cửa có tiếng gọi “A Lăng…”
Hạ Lăng vội lau hàng lệ bằng tay áo: “Vào đi.”
Lan Thanh đẩy cửa bước vào, thấy Hải Triều thì sững lại: “Vọng tiểu nương tử cũng ở đây.”
Hải Triều khẽ gật đầu: “Vết thương của ngươi thế nào?”
“Không đáng ngại.” Lan Thanh xắn tay áo, để lộ cánh tay đã được băng bó: “Xương chưa gãy.”
“Vậy thì tốt.” Hải Triều liếc nhìn Hạ Lăng, “Hai người nói chuyện đi, ta về trước.”
Song Hạ Lăng giữ lại vạt áo nàng: “Tiểu nương tử, xin hãy đợi.”
Nàng nhìn thẳng Lan Thanh: “Lan công tử có gì thì cứ nói, giữa ta và ngươi không có chuyện gì cần phải lén lút riêng tư.”
Lan Thanh thoáng lộ vẻ khó xử, chần chừ một hồi mới cất lời: “A Lăng oán hận ta là phải, bởi ta đã lừa nàng. Ta vốn không phải thầy thuốc.”
Khóe môi Hạ Lăng nhếch khẽ: “Ta đã đoán ra, ngươi không giống người trong núi. Vậy danh tính của ngươi cũng là giả sao?”
Lan Thanh cúi đầu áy náy: “Ta họ Bạch, tên Tư Quân, nhà ta vốn làm thương nhân, đời đời lấy nghề dệt gấm mà sinh sống.”
Hạ Lăng không lấy làm ngạc nhiên, bình thản hỏi: “Ngươi đến Thôn Kén Nữ, là vì giống thần tằm hay Đăng Tiên Lăng?”
Lan Thanh lắc đầu, đôi mắt chăm chú nhìn nàng: “Ta đến Thôn Kén Nữ là để tìm thúc phụ. Ông ấy là con út của tổ mẫu ta.
Hơn hai mươi năm trước, tổ phụ tình cờ có được một mảnh tàn của Băng Phách lăng, ngày đêm tâm niệm, tâm bệnh dằn vặt. Ông cho người khắp nơi dò hỏi, hai mươi năm trước nghe tin trong núi Ba Thục có ngôi làng dệt dị lăng, liền sai thúc phụ vào núi thám thính.
Tổ mẫu cực lực phản đối, nhưng tổ phụ cố chấp, thúc phụ chẳng thể cãi, đành vâng mệnh, hai mươi năm trước cùng vài tùy tùng tiến vào sâu núi, từ đó biệt vô âm tín.
Mãi đến mấy năm trước, có người mang tới nhà ta một tấm bạch lăng, thì ra thúc phụ ở trong thôn không tiện gửi thư, bèn nhờ một nữ tử trong làng, ở đuôi lụa trắng viết lên tung tích của mình, hứa sẽ hậu tạ, cuốn vào trong gấm vóc, lén lút gửi ra ngoài qua tay người buôn.”
“Thư ấy nói gì?” Hạ Lăng hỏi.
“Thúc phụ viết rằng ông đã tìm được Thôn Kén Nữ, cũng tìm thấy người biết dệt Băng Lăng Phách. Nhưng cách dệt ấy độc hại tà ác, trái nghịch thiên hòa, với Bạch gia, với thế nhân đều trăm hại mà không một lợi. Xin tổ mẫu khuyên can tổ phụ.” Bạch Tư Quân chậm rãi đáp.
Hải Triều nhìn vào mắt hắn, thấy vẻ mặt thản nhiên, ánh mắt sáng trong, không hề giống kẻ dối trá.
Hắn nói tiếp: “Trong thư, thúc phụ còn nói rằng, ông đã gặp một nữ tử trong thôn và đem lòng thương mến, đã cùng nàng hẹn ước trọn đời, chẳng bao lâu nữa sẽ dẫn nàng về thành Thục Châu.”
Nói rồi, hắn lấy từ trong ngực ra một mảnh lụa trắng đã ố vàng đặt lên án. Trên đó chỉ có ngày tháng và dòng chữ ký “Vân Thâm bái thượng”, nét mực đã phai, song vẫn còn thấy rõ bút tích phóng khoáng, như có thể thoáng thấy bóng dáng một kẻ tiêu sái bất tuân.
Thì ra tên người ấy là Bạch Vân Thâm, Hải Triều thầm nghĩ.
“Ta không dám mang cả bức thư bên mình, e rằng bị người phát hiện, chỉ giữ lại một mảnh này, phòng khi tìm được thúc phụ, thúc mẫu hoặc hậu nhân, còn có thể lấy làm bằng chứng.” Lan Thanh lộ vẻ tiếc nuối, “Đáng tiếc khi vào thôn mới biết, thúc phụ và thúc mẫu đều chẳng rõ tung tích.”
“Lời dân làng kia vừa nghe đã biết là giả.” Hắn nói tiếp, “Năm đó thúc phụ chuẩn bị đưa thúc mẫu rời thôn, nếu thuận lợi đi ra, sao có thể nhiều năm chẳng một tin tức, ngay cả tang lễ của tổ phụ cũng không trở về? Huống chi thúc phụ vốn là người trọng tình trọng nghĩa, sao có thể bỏ thê tử con cái? Ta biết trong đó ắt có uẩn khúc, bởi thế mới ở lại thôn, tra tìm chân tướng.”
Hải Triều hỏi: “Giờ ngươi đã biết được sự thật chưa?”
Trong mắt Lan Thanh thoáng hiện vẻ thương cảm: “Lương công tử đã nói cho ta biết cả. Ta vẫn ngờ tộc trưởng hại chết thúc phụ, thúc mẫu, chẳng ngờ thúc mẫu lại chính là bà ấy. Đáng tiếc gặp mà không nhận, đến người… cũng chẳng thể tương phùng…”
Hạ Lăng khẽ lắc đầu: “A nương hẳn đã đoán được thân phận của ngươi. Người vốn đa nghi, ngươi lai lịch mập mờ, đến ta cũng nhìn ra, sao bà lại hoàn toàn không hay biết?
Vả lại, có mấy lần ngươi ở trong viện, A nương ngồi trong cửa sổ ngẩn ngơ nhìn ra, giờ nghĩ lại, e rằng là nhớ đến thúc phụ ngươi…”
Lan Thanh sững sờ, rồi ánh mắt u ám: “Vì sao bà ấy không nói với ta?”
Hạ Lăng cúi đầu: “Có lẽ không biết nên mở lời thế nào. Thúc phụ ngươi biến thành bộ dạng ấy, A nương chắc hẳn luôn tự trách.”
Mắt Lan Thanh dần ướt, khàn giọng: “Nghe nói chính thúc phụ đã đưa chúng ta vào cấm địa. Khi đó ta hôn mê, chẳng thể thấy ông ấy lần cuối, không biết nên nói là may mắn hay bất hạnh. Chỉ tiếc cửa động đã sụp, ngay cả mai táng cũng không thể…”
Hải Triều bèn lấy từ trong ngực ra một gói nhỏ tro cốt của Nga Nô: “Đây là phần tro ta góp nhặt được, định tìm một nơi an táng. Nay ngươi là thân nhân, giao lại cho ngươi mới phải.”
Lan Thanh run rẩy đón lấy, nghẹn ngào: “Đa tạ tiểu nương tử, nhờ có nàng mà thúc phụ ta mới có thể quay trở lại cố hương, xin nhận của tiểu sinh một lạy!”
Nói đoạn liền quỳ xuống.
Hải Triều hoảng hốt xua tay: “Không cần tạ, thúc phụ ngươi đã cứu mạng chúng ta, ta làm chút chuyện nhỏ này thì có là gì.”
Song Lan Thanh vẫn cố dập đầu ba cái, khi đứng dậy thì lệ đã ướt đầy mặt.
Hắn lau nước mắt, cẩn trọng thu lại gói tro cốt, quay sang Hạ Lăng: “Vậy di mẫu… thi hài người, A Lăng định xử trí ra sao?”
Hạ Lăng rưng rưng: “Lẽ ra phải an táng A nương, nhưng ta chẳng thể ở lại thôn, chỉ có thể nhờ Cẩm di lo liệu hậu sự.”
Lan Thanh trầm ngâm một lát, rồi nói: “Ta có một điều không tiện cầu xin. Ta muốn đưa di mẫu về Thục Châu, để hợp táng cùng thúc phụ.”
Hắn dừng lại, giọng dịu xuống: “Như vậy A Lăng và A Miên cũng có thể thường đến thăm viếng.”
Hạ Lăng cắn môi rất lâu, rốt cuộc nhẹ gật đầu: “A nương cả đời muốn rời khỏi đây, lúc sống bị giam hãm, thì khi chết hãy để người toại nguyện. So với ở lại, người hẳn sẽ vui hơn khi được ở cạnh thúc phụ ngươi.”
Lan Thanh ngẫm nghĩ giây lát, lại hỏi: “Vậy A Lăng, sau này nàng định thế nào?”
Hạ Lăng đáp: “Trời đất mênh mông, ắt có nơi dung thân.”
Lan Thanh ngập ngừng rất lâu, áo choàng bên gối đã bị bàn tay nắm chặt nhăn nhúm, mới lấy hết can đảm nói: “Hãy cùng ta về Thục Châu. A Miên là cốt nhục của thúc phụ, tổ mẫu nhất định cũng chẳng an lòng để muội ấy lưu lạc bên ngoài. Vả lại, những người dân kia ra khỏi núi cũng cần sinh kế, ta có thể sắp xếp bọn họ vào phường lụa của Bạch gia…”
Chưa dứt lời, Hạ Lăng đã cắt ngang: “Đa tạ ý tốt của công tử, song không cần đâu. Tuy chúng ta chưa từng ra khỏi thôn, nhưng chỉ cần cần cù chịu khó, nhất định có thể tự mưu sinh.”
Nàng ngập ngừng giây lát rồi nói: “Nếu tổ mẫu ngươi muốn gặp A Miên, ta có thể đưa muội ấy đi bái phỏng, nhưng muội ấy là tỷ muội của ta, ta có thể chăm sóc nàng, quyết không giao cho người khác.”
Lan Thanh do dự một thoáng: “A Lăng, nàng… vẫn còn trách ta từng lừa dối nàng sao?”
Hạ Lăng khẽ lắc đầu: “Ta không trách ngươi. Ngươi cho rằng A nương ta giết thúc phụ ngươi, đề phòng ta cũng là lẽ thường.”
Nàng dừng lại, mỉm cười chua xót: “Nhưng bị lừa chính là bị lừa.”
Nàng ngẩng lên, thẳng thắn nhìn Lan Thanh, trong mắt sáng trong: “Ta không thể nói dối ngươi rằng ta không đau lòng, không để tâm.”
Lan Thanh lặng lẽ nhìn nàng, ánh mắt đầy phức tạp. Rốt cuộc, hắn chẳng nói thêm lời nào, chỉ gật đầu: “Nếu có việc gì cần giúp, cứ mở miệng.”
Hắn lấy từ tay áo ra một miếng ngọc thạch nhỏ mộc mạc: “Đây là tín vật của ta, xin nàng nhận lấy. Bạch gia ở Thục Châu, Nhị Kinh và các châu Giang Hoài đều có thương quán. Nếu có việc gì có thể dùng vật này làm tin, cũng có thể nhờ người đưa tin đến ta.”
Hạ Lăng không muốn nhận. Ánh mắt Lan Thanh thoáng hiện vẻ đau đớn, khẩn cầu: “Ta biết nàng chẳng muốn dây dưa với ta. Nhưng hãy xin coi như ta vì thẩm mẫu tỏ chút tâm ý, được không?”
Lúc này Hạ Lăng mới lặng lẽ nhận lấy.
Lan Thanh khẽ nói lời cảm tạ, rồi đứng dậy cáo biệt.
Người vừa bước ra khỏi cửa, Hạ Lăng liền úp mặt trong tay, òa khóc nức nở.
Hải Triều lặng lẽ ngồi bên nàng một hồi, thì có dân làng gõ cửa, nói bè tre đã buộc xong, mưa cũng sắp tạnh, dòng nước ngầm đang dâng cao.
Hai canh giờ sau, những người rời bỏ thôn làng đã thu dọn hành trang xong, quan tài tộc trưởng cũng được mấy tráng đinh khiêng xuống núi.
Mọi người lần lượt bước lên bè tre, chống sào. Dòng nước ngầm lặng lẽ phản chiếu ánh đuốc, như dải ngân hà sa xuống trần gian.
Bè tre từ từ rời khỏi động tối, phương đông đã hé ánh bình minh.
Hạ Lăng vịn lấy quan tài mẫu thân, ngoái đầu nhìn cố hương lần cuối. Từ xa, nàng thấy Hạ Cẩm và mấy dân làng khác đứng lặng trước gốc “dâu thần” cháy thành than, trong ánh sáng mờ nhạt của bình minh, tựa như những tấm bia cổ xưa trầm mặc, lặng lẽ tiễn đưa tương lai của họ.
Trong thoáng chốc, Hạ Lăng bỗng hiểu ra, họ chẳng phải cũng khát vọng trời đất bên ngoài? Chỉ là lòng quá nhút nhát, chẳng dám bước chân ra.
Dẫu biết họ chẳng nhìn thấy, chẳng nghe rõ, nàng vẫn ngẩng cao đầu, nở một nụ cười sáng rỡ, lớn tiếng hô: “Chúng ta nhất định sẽ sống thật tốt, đừng lo lắng, các người cũng phải bảo trọng!”
Chiếc bè chở quan tài vượt qua đoạn đứt gãy của cầu đá ngoài thôn. Hải Triều vô thức ngẩng nhìn, trong màn sương mù của buổi sớm, thấp thoáng hiện ra một thiếu nữ áo trắng yếm hồng, tóc búi song nha.
Dung mạo nàng giống hệt Hạ Lăng, nhưng trầm tĩnh, đôi mắt đen sâu thẳm dõi theo quan tài của Hạ La.
“Muội đang nhìn gì thế?” Lục Uyển Anh cũng ngẩng theo, trông thấy bóng người trong sương sớm.
Hải Triều khẽ đáp, lòng dâng lên linh cảm: “Đó là… Hạ La sao?”
Trực giác lại mách bảo nàng, kia tuyệt đối chẳng phải Hạ Sa.
Lời chưa dứt, thiếu nữ kia bỗng bước lên một bước, chưa đợi họ kịp phản ứng, đã quăng vật gì đó về phía bè tre, rồi xoay người bỏ chạy.
Hải Triều mắt tinh tay lẹ, vội đón lấy. Cúi nhìn xuống, lại thấy đó là một miếng kẹo mạch nha, dần dần hóa thành một viên ngọc sáng rực trong lòng bàn tay nàng.
Nàng sững sờ: “Đó là… Hạ Miên…”
Thì ra toàn bộ bí cảnh này chính là chấp niệm của Hạ Miên.
Lục Uyển Anh cũng đã hiểu, khẽ thở dài: “Hóa ra chấp niệm của nàng, chính là để A nương cùng muội muội rời khỏi thôn…”
Ngẩng lên, bóng dáng thiếu nữ đã tan trong màn sương mờ.
“Hải Triều muội muội mau xem!” Trình công công, toàn thân quấn băng, chỉ còn cổ có thể cử động, kêu the thé trên bè: “Hỏa Môn hiện rồi!”
Hải Triều xoay đầu nhìn, quả nhiên ngay trước bè không xa, một cánh cửa lửa rực cháy nổi lềnh bềnh trên mặt nước.
Thấy bè sắp xuyên qua đó, mọi người đều thở phào nhẹ nhõm.
“Tạp gia đang canh cánh trong lòng.” Trình Hàn Lân nói, “Thấy trời sắp sáng mà cửa vẫn chưa hiện, ta đã lo…”
Lời chưa dứt, giọng nói đột nhiên nghẹn lại. Hắn trừng mắt khiếp hãi: “Tử… Tử Minh, huynh đang làm gì vậy?”
Hầu như cùng lúc, Lục Uyển Anh thất thanh kêu lên: “Lương công tử!”
Hải Triều còn chưa kịp hoàn hồn từ niềm vui khi thấy cánh cửa, đã bất ngờ bị một bàn tay siết chặt cổ họng.
“Ngươi…” Nàng chỉ thốt ra được một chữ, rồi cổ họng nghẹn cứng, không phát ra âm thanh.
Nàng bàng hoàng nhìn bàn tay kia.
Kẻ ấy chính là Lương Dạ.
Mặt hắn tái nhợt, mồ hôi lạnh tuôn ròng ròng, môi khô nứt mấp máy chẳng thành tiếng, vẻ mặt vô cùng đau đớn.
Trình Hàn Lân bất chấp vết thương , choàng ngồi dậy, nhìn chằm chằm môi hắn, lẩm bẩm: “Chú…chú… ngữ”
Rồi bừng tỉnh: “Chú ngữ! Tử Minh nói là chú ngữ! Huynh ấy bị nguyền rủa rồi”
Trong lúc hắn nói, Lương Dạ cứng ngắc nâng tay phải, gắng sức bẻ ngón tay trái. Chỉ nghe “rắc” một tiếng, xương tay gãy đoạn, nhưng bàn tay kia vẫn không chịu buông lỏng.
Lực đạo ở bàn tay quá lớn, cả người Hải Triều bị nhấc bổng, lồng ngực như muốn nổ tung, tay chân bủn rủn, trước mắt đen kịt…
Hai mắt tối sầm, ý thức nàng cũng dần trở nên mơ hồ.
Lương Dạ lại bẻ gãy thêm hai ngón tay, đau đến mức cả người run rẩy, mồ hôi lạnh túa ra như mưa, thế nhưng mấy ngón đã gãy kia vẫn chẳng buông lỏng, ngược lại còn siết chặt thêm.
Hải Triều cố gắng liếc về phía Hỏa Môn, chỉ còn cách vài trượng nữa thôi, chỉ cần cầm cự thêm chút nữa, đợi bọn họ vượt qua là được. Nhưng… dường như nàng không thể chờ tới lúc đó.
Trong lòng nàng đầy ắp bất không cam tâm. Trải qua muôn vàn gian nan, vất vả lắm mới thoát khỏi cõi chết, lại chỉ còn một bước, thế mà nàng phải chết ngay tại đây.
Bí cảnh này từ đầu đã chôn sẵn chú ngữ, cố ý đợi đến giờ phút cuối cùng mới phát tác, như thể muốn đùa giỡn, nhạo báng bọn họ.
Nếu nàng chết đi, lại chết trong tay Lương Dạ, hắn sẽ thế nào đây?
Bên tai vang lên từng tiếng “rắc rắc” xương gãy, mỗi một tiếng đều khiến tim nàng đau thắt.
Nàng hận đến nghiến răng, muốn mở miệng chửi rủa cái bí cảnh chó má này một trận, nhưng ngay cả sức để há miệng cũng không còn.
Đúng lúc ấy, trong cơn mê man, nàng nghe thấy một tiếng “choang” quen thuộc.
Âm thanh của lưỡi đao rời khỏi vỏ, có người đã rút thanh đao của nàng.
Nàng chợt hiểu ra, muốn ngăn cản nhưng không kịp.
Lương Dạ vung đao chém xuống, máu tươi từ cánh tay đứt lìa phun xối xả, bắn tung tóe lên mặt nàng.
Cổ Hải Triều bỗng cảm thấy nhẹ bẫng, một cánh tay cụt rơi phịch xuống bè tre, không khí ẩm lạnh pha lẫn mùi tanh nồng của máu ào ạt tràn vào phổi nàng.
Nàng ngây dại nhìn hắn, há to miệng hít từng ngụm, trong tầm mắt chỉ còn một màu đỏ ngập trời.
Lương Dạ gắng cong khóe môi, thả tay, thanh đoạn đao rơi thẳng xuống sàn bè.
Hắn giơ cánh tay phải, khẽ kéo ống tay áo, nhẹ nhàng lau đi vết máu trên mặt nàng, rồi thân hình loạng choạng, ngã xuống.
Cùng lúc ấy, bè tre lao thẳng vào Hỏa Môn.
Ngay sau khi bè tre biến mất, cửa lửa dần co lại, hóa thành một tờ giấy ngả vàng.
Trên giấy hiện ra hàng chữ cổ:
【Thời Vũ Đế, đất Thục có ba dị sĩ dâng hạt dâu giống âm dương, nói là di vật cung thất thời cổ của họ Tằm Tùng, có hai pháp âm dương. Dương pháp gieo được cây dương, sinh trưởng ở thịnh thế, trong vườn của nhân quân, trăm năm thành cây, lại trăm năm sinh thần tằm, mười năm nhả tơ, mười năm kết kén, dệt thành bảo lăng, cắt may thiên y, thiên tử mặc vào có thể hóa cánh mà thành tiên.
Vũ Đế nói: thiên y chưa thành mà trẫm đã băng hà, há có can hệ với trẫm? Nguyện nghe âm pháp.
Nếu dùng âm pháp, chọn bốn trăm nam nữ đồng tử dung mạo tuấn mỹ, cùng dị sĩ vào sâu núi Ba Thục trồng cây, dùng máu xử nữ tưới nuôi, ba năm thì sum sê rực rỡ, rễ tựa rắn mà sống, giao hoan cùng mỹ nữ, hoài thai sinh tằm, lại một năm thì có tơ, một năm sinh tằm chủng, tằm chủng ăn nhau, sống sót chính là Thần Tằm.
Chọn chỗ cực lạnh cực tối, dùng nữ tử kiều lệ an tĩnh dệt vải, lấy máu nuôi dưỡng, một năm có thể dệt được mấy thước. Người dệt chưa đủ một năm thì uất ức điên cuồng, chết nối nhau, một thiên y thành cần mấy chục mạng người.
Thiên y chưa thành, Vũ Đế băng hà, phương sĩ cũng chết.
Đồng nam đồng nữ sinh sôi, kết thành thôn. Nữ tử dung mạo mỹ lệ thông tuệ, làm thê của yêu thụ; nam tử xấu xí ngu muội, làm thức ăn. Qua nhiều đời sau, tự phối hợp, sinh nhiều thai nhi dị dạng chết yểu, mỗi khi có kẻ chết thì chôn dưới gốc cây.
Cận thế có tiều phu lạc bước vào núi, kể rằng có thôn tên ‘Kén Nữ’, khói lửa tàn phai, nhà cửa nát mục, mấy trăm người ở trên dâu thần ngũ sắc, chẳng biết ngôn ngữ, làm tổ trên cây, ăn lá dâu mà sống, nhả tơ kết kén, xuân sinh hạ chết.】
Dòng chữ dần mờ đi, chữ mới hiện lên:
【Thiên y chưa thành, Vũ Đế băng hà, phương sĩ cũng chết.
Đồng nam đồng nữ sinh sôi, kết thành thôn. Nữ tử dung mạo mỹ lệ thông tuệ, làm thê của yêu thụ; nam tử xấu xí ngu muội, làm thức ăn. Qua nhiều đời sau, tự phối hợp, sinh nhiều thai dị dạng chết yểu, mỗi khi có kẻ chết thì chôn dưới gốc cây.
Năm Xương Bình, có bốn khách tới, hàng yêu thiêu thụ, tục ấy biến mất. Dân thôn dần dần giao thông với bên ngoài, qua mấy đời, chỉ còn lưu lại tên ‘Kén Nữ’, còn lại chẳng khác gì các thôn làng bình thường. Người trẻ trong thôn, phần nhiều chẳng rõ gốc tích.】
【Thôn Kén Nữ】— Hoàn
*
Tinh Nguyệt: Huhu, ta thích nhân vật Lương Dạ quáaaaa!
***