Chương 51: Thôn Kén Nữ (8)
***
Thi thể treo lơ lửng phía trên cửa động, nếu không đi từ bên trong ra thì khó mà phát hiện. Giống hệt Thạch Thập Thất, thi thể bị dải lụa trắng quấn chặt thành hình kén, chỉ lộ ra một gương mặt. Trên mặt phủ kín những vết hoen tím bầm của tử thi, ngũ quan so với khi còn sống lại càng mơ hồ. Nam nhân trong Thôn Kén Nữ, ngoại trừ Lan Thanh và A Ế, đều như được đúc từ cùng một khuôn, Hải Triều hoàn toàn không nhớ nổi Thạch Tứ Nhất trông ra sao.
Nhưng Lương Dạ vốn nổi tiếng nhìn qua một lần là nhớ, dù là điểm khác biệt nhỏ nhất cũng không lọt khỏi mắt hắn, nên khẳng định đó chính là Thạch Tứ Nhất. Hải Triều nghe vậy không hề nghi ngờ.
“Có nên đưa ông ấy xuống không?” Hải Triều quan sát một lượt, thấy vách đá lồi lõm, lại có nhiều hốc như bị đục thủ công, với thân thủ của nàng leo lên chắc không khó.
Lương Dạ lắc đầu: “Gọi người đến trước đã.”
Đang nói thì bên ngoài động vang lên hai tiếng chim hót, nghe một cái là biết do Trình Hàn Lân bắt chước.
“Có người tới!” Hải Triều nói, “Ra ngoài trước.”
Ra khỏi động, người đã gần đến nơi, là ba dân làng lên núi tìm kiếm.
Đi đầu là một nữ nhân trung niên, gương mặt hơi quen, Hải Triều nghĩ một lát mới nhớ ra, đó chính là nữ nhân đã hành hình trong Từ miếu, hẳn là cánh tay phải của tộc trưởng.
Nữ nhân bước lại gần, ánh mắt đầy nghi hoặc: “Vài vị sao lại ở đây?” Giọng nói không hề khách khí.
“Chúng ta đang giúp tìm Thạch đại thúc.” Hải Triều khoanh tay, cau mày hỏi lại: “Sao, chỗ này không được đến à?”
Nữ nhân đáp: “Chắc các vị không biết, động này là cấm địa của hai tộc, thường ngày không được tùy tiện vào, kẻo quấy nhiễu thần minh.”
Hải Triều giả bộ kinh ngạc: “Ồ, xin lỗi, nhưng chúng ta vừa vào trong rồi, không biết có làm phiền đến thần minh của các người không.”
Sắc mặt nữ nhân lập tức trở nên căng thẳng, vốn đã nghiêm khắc nay càng thêm lạnh lùng: “Người không biết thì không có tội, nhưng chuyện này ta phải bẩm báo tộc trưởng.”
Hải Triều gật đầu: “Đúng là nên nhanh chóng tìm tộc trưởng, vì chúng ta vừa thấy thi thể Thạch đại thúc trong động.”
Nữ nhân trợn tròn mắt: “Cái gì?!”
“Thạch đại thúc bị người ta giết, xác buộc trên thạch nhũ.” Hải Triều nói, “Không tin thì tự vào xem.”
Nữ nhân liếc vào trong động một cái, nhưng không dám bước tới nửa bước: “Các người thật sự thấy rồi? Không nhầm chứ? Đó là cấm địa, vào sẽ xúc phạm Mã Đầu nương nương, trong làng chẳng ai dám…”
Hải Triều thấy buồn cười: “Đã dám giết người rồi mà còn sợ cái này à?”
Nữ nhân lại lộ vẻ vừa sợ hãi vừa kính cẩn khó tả, lẩm bẩm: “Các người không hiểu đâu… ta đi báo tộc trưởng trước…”
Tin tức nhanh chóng lan ra, dân làng đang rải rác trên núi đều tụ về cấm địa, vây kín cửa động như nêm cối. Nhưng không ai dám vượt quá ranh giới, kẻ gan nhất cũng chỉ dám ló đầu nhìn vào.
Bỗng vòng ngoài đám đông xôn xao, nhường ra một lối. Hạ Lăng được Lan Thanh đỡ, loạng choạng bước tới. Nàng vừa nghe tin cha mất đã khóc suốt dọc đường, đôi mắt sưng như quả hồ đào, trông thấy Hải Triều, đôi mắt đẫm lệ sáng lên, nàng nắm chặt cánh tay Hải Triều như kẻ sắp chết đuối vớ được cọc: “Có phải họ truyền sai không?”
Hải Triều nhìn dáng vẻ ấy cũng thấy khó chịu trong lòng, nhưng chẳng biết an ủi thế nào, chỉ mím môi lắc đầu thật chậm.
Hạ Lăng bật khóc thảm thiết, định lao vào động, đám đông ồ lên kinh hãi, bao cánh tay cùng đưa ra giữ chặt nàng lại.
“Không được đâu A Lăng! Không được!”
“Đó là cấm địa!”
“Giữ chặt nàng, đừng xúc phạm Tằm Thần nương nương!”
Hạ Lăng giãy giụa kịch liệt, gào khản cả giọng: “Đó là a cha của ta! Các người điên hết rồi sao? Thả ta ra! Để ta đi tìm a cha!”
Nhưng sức một người sao địch nổi mấy chục người, bọn họ như một bức tường chặn nàng bên ngoài.
“Lan Thanh! Lan Thanh cứu ta…” Hạ Lăng đưa tay ra, nhưng Lan Thanh đã bị dòng người đẩy sang phía khác.
Quá mức vô tình! Hải Triều cau mày, định lên tiếng thì có người kéo vạt áo nàng.
Nàng quay lại, thấy Lương Dạ khẽ lắc đầu.
Hải Triều hiểu, chuyện này một kẻ ngoài như nàng không nên xen vào, nhưng dáng vẻ của Hạ Lăng thực khiến người ta đau lòng. Nàng bất giác nhớ tới khi thấy thi thể ướt đẫm của a nương bị vớt lên, tim như bị móng vuốt sắc nhọn siết chặt, xuyên thấu, khó mà thở nổi. Nàng hiểu quá rõ cảm giác mất người thân là thế nào.
Đúng lúc ấy, có tiếng hô: “Yên lặng, tộc trưởng tới!”
Đám đông lập tức tách ra một lối, tộc trưởng Hạ La chậm rãi bước tới, gương mặt vốn nghiêm khắc giờ trắng bệch.
“A nương.” Hạ Lăng vừa khóc vừa gọi, giọng đầy ấm ức như đứa trẻ bị oan, “Con muốn…”
Tộc trưởng lạnh giọng cắt ngang: “Đó là cấm địa, từ nhỏ tới lớn ta dạy con bao nhiêu quy củ, con quên sạch rồi sao?”
Hạ Lăng tròn mắt kinh ngạc, nước mắt lã chã: “Nhưng mà…”
Tộc trưởng liếc nàng một cái lạnh lùng: “Xem ra là ta thường ngày quá nuông chiều con. Mau tới Từ miếu, quỳ trước Tằm Thần nương nương một canh giờ, thành tâm sám hối.”
Hạ Lăng như không tin nổi: “Ít nhất cũng để con nhìn a cha một lần…”
Tộc trưởng: “Đợi quỳ đủ một canh giờ, tự khắc sẽ được thấy.”
Hạ Lăng nhìn chằm chằm vào gương mặt của mẫu thân, trong mắt đầy ắp thất vọng, vẻ kính ngưỡng và thân ái khi xưa đã tan biến không còn dấu vết. Nàng nghiến răng nói: “A cha vì người mà làm trâu làm ngựa, nhẫn nhịn khổ cực hầu hạ suốt mấy chục năm, người lại chưa từng nhìn ông ấy lấy một cái. Bao năm nay họ nói người không có tim gan, con vẫn luôn không tin, hóa ra… đúng là vậy! Con và a cha trong mắt người chẳng đáng một đồng, người chỉ biết đến cái chức tộc trưởng của mình! Chẳng trách… chẳng trách người đó… muốn A di chứ không muốn người!”
Lời còn chưa dứt, chỉ nghe “chát” một tiếng giòn vang, tộc trưởng giáng cho nữ nhi một cái tát vang dội.
Đám đông im phăng phắc, chỉ còn tiếng gió núi từ xa lùa qua rừng cây, vang lên tựa từng đợt sóng vỗ.
Hạ Lăng ôm má, lại bật cười. Nàng nhìn a nương, rồi đảo mắt quanh bốn phía: “Điên… tất cả các người đều là kẻ điên! Cái thôn này… toàn là kẻ điên!”
Lan Thanh vội kéo nàng sang một bên, bịt miệng lại.
Môi tộc trưởng mím thành một đường thẳng, gò má khẽ giật, rõ ràng đang cố kìm nén bản thân.
Nhưng không hiểu vì sao, Hải Triều lại chẳng thấy bao nhiêu phẫn nộ trong mắt bà ta, mà là nhiều hơn đau đớn và cô tịch. Ánh hoàng hôn u ám phủ trùm núi non, cũng phủ lên thân ảnh khoác hắc bào của nữ nhân ấy, khiến bà như một chiếc bóng đơn độc.
Có một thoáng, Hải Triều gần như tưởng bà ta sắp khóc.
Song chỉ giây lát, cảm xúc trong mắt lắng xuống, lại quay trở về lạnh lùng cứng rắn như tượng đá, tộc trưởng quay sang nữ nhân từng hành hình kia: “A Cẩm, đưa nó tới Từ miếu.”
Ngay cả nữ nhân nghiêm khắc ấy cũng thoáng hiện vẻ không nỡ: “Tộc trưởng, hay là…”
Tộc trưởng liếc nhìn một cái: “Kẻ nào xin cho Hạ Lăng thì chịu phạt cùng nó.”
Nữ nhân chỉ đành quay sang khuyên nhủ: “A Lăng, đừng bướng nữa, theo Cẩm di đi…”
Hạ Lăng dường như đã bị trận phản kháng vừa rồi rút sạch sức lực, đôi mắt trống rỗng nhìn thẳng về phía trước, để mặc nữ nhân tên Hạ Cẩm dìu đi về phía rừng dâu.
Đến giữa rừng, Hạ Lăng mới như bừng tỉnh, “òa” một tiếng khóc nức nở.
Hạ Cẩm ôm lấy nàng, nhẹ nhàng vỗ lưng: “A Lăng ngoan, A Lăng ngoan… Cẩm di biết con đau lòng, nhưng vừa rồi con thật không nên nói a nương con như vậy, con có biết a nương con sẽ đau thế nào không?”
Hạ Lăng khóc đến nỗi gần như nghẹn thở: “Con… con… con không cố ý… con không muốn nói thế… nhưng bà ấy đối với a cha, còn có a Miên…”
Hạ Cẩm xoa gáy nàng, thở dài: “A nương con có nỗi khổ riêng. Con là nữ nhi của bà ấy, lại chẳng tin a nương mình, mà tin lời gièm pha của người ngoài, con bảo bà ấy nghĩ sao?”
Hạ Lăng cúi đầu: “Cẩm di, con biết sai rồi…”
Hạ Cẩm nắm tay nàng: “Biết sai là được. Người nhà làm gì có oán hận qua đêm, con cứ ngoan ngoãn tới Từ miếu sám hối, lát nữa gặp a nương thì thành thật xin lỗi.”
Hạ Lăng gật đầu: “Vâng… Cẩm di có thể ở bên con không?”
Hạ Cẩm cười bất lực: “Ngần này tuổi rồi, còn sợ sao?”
Vừa đi vừa trò chuyện, chẳng mấy chốc đã đến trước Từ miếu.
Hạ Cẩm dừng lại, ghé sát tai nàng, khẽ nói: “Tối nay là lễ Tế Âm Tằm, phải rút thăm xem con hay A Miên ai sẽ làm Tằm Hoa nương nương. May mà theo thứ tự tuổi thì con rút trước…”
Hạ Lăng kinh ngạc mở to mắt: “Chuyện này chẳng phải do Tằm Thần…”
“Ngốc ạ.” Hạ Cẩm khẽ trách: “Con có biết làm Tằm Hoa nương nương phải chịu khổ thế nào không? A nương con từng nếm rồi, tất nhiên không thể để con chịu một lần nữa.”
Bà ngừng một chút: “Cẩm di đã lén khắc dấu trên một thẻ, lát nữa khi con thò tay vào hòm, nhớ tìm thẻ có vết khía ở mặt sau, chọn thẻ đó…”
“Nhưng còn A Miên…”
“A Miên là đứa ngốc, nó chẳng hiểu gì, cũng không biết sợ. Đây là nghiệp mẹ nó gây ra, là A di của con mắc nợ A La.”
“Dù A di năm xưa có làm gì… nhưng A Miên vô tội…”
“Ngốc quá…”
Hạ Cẩm đang nói dở thì khóe mắt thoáng thấy một bóng đen lướt ngang, bà ta giật mình quay lại: “Ai đó!”
Đáp lại là tiếng chim kêu chói tai, một con quạ già sà qua trước mặt bà, đậu lên mái hiên Từ miếu.
Hạ Cẩm vỗ ngực, thở phào, rồi dặn dò: “Nhớ nghe lời Cẩm di.”
Hạ Lăng: “Đây là ý của A nương sao?”
Hạ Cẩm gật đầu.
Hạ Lăng cắn môi, cúi đầu: “Con hiểu rồi.”
*
Tộc trưởng dõi theo hai người khuất vào rừng dâu, rồi mới đưa mắt quét quanh, trầm giọng hỏi: “Đại Vu đâu?”
Dân làng đều lắc đầu, xôn xao nói rằng sau lễ Tế Tằm Thần đã thấy ông ta vào rừng dâu, rồi không ai gặp nữa.
Lan Thanh đáp: “Chắc là đi chuẩn bị cho lễ Tế Âm Tằm tối nay.”
Tộc trưởng khẽ gật, nói với hắn: “Dân làng không tiện bước vào cấm địa, ngươi theo ta vào.”
Hải Triều bước lên trước: “Thi thể treo trên đỉnh động, hai người e là không đủ sức… để chúng ta giúp một tay.”
Tộc trưởng liếc nhìn nàng, khẽ gật đầu: “Đa tạ.”
Hải Triều leo lên tới đỉnh động, gỡ xác khỏi thạch nhũ. Lan Thanh và Lương Dạ ở bên dưới đỡ lấy, ba người phải vất vả một hồi mới đưa được thi thể xuống, khiêng ra ngoài cửa động.
Đám đông đồng loạt ồ lên kinh hãi.
Trong động u tối, Hải Triều lại không dám nhìn kỹ, đến lúc ra ngoài định thần quan sát, nàng mới phát hiện điều khác thường.
Nàng vốn cho rằng thứ quấn quanh người Thạch Tứ Nhất cũng là dải lụa trắng, nhưng giờ mới nhận ra đó là tơ tằm chưa qua dệt, Thạch Tứ Nhất như bị bọc kín trong một cái kén khổng lồ. Không chỉ thân thể, ngay cả gương mặt cũng bị phủ một lớp tơ, như màng mỏng trùm kín mũi miệng, vẫn lộ ra những vết hoen tím của tử thi bên dưới.
Loại tằm gì có thể nhả tơ dệt thành cái kén bọc trọn một người chỉ trong một đêm? Một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng Hải Triều.
Đúng lúc đó, nàng bỗng thấy lớp màng tơ phủ trên mặt tử thi khẽ động.
Nàng ngỡ mình hoa mắt, kinh ngạc nhìn sang Lương Dạ, lại thấy hắn khẽ gật đầu, tim nàng như hẫng một nhịp.
Nhìn lại gương mặt tím bầm kia, không phải ảo giác, rõ ràng lớp tơ ấy đang nhẹ nhàng phập phồng… như thể thi thể kia đang thở.
Trình Hàn Lân nãy giờ vẫn đứng ở xa, dùng tay che mắt nhưng len lén nhìn qua kẽ ngón. Giờ cũng nhận ra dị trạng, sợ hãi kêu lên: “Ông ấy động kìa! Các người thấy không, thi thể cử động đó aaaaa!!!”
Những người khác cũng đã chú ý, đồng loạt hoảng hốt nhìn thi thể.
Sắc mặt tộc trưởng tối sầm, ánh mắt không rời xác chết, trong mắt không hề có lấy một chút thương xót, chẳng giống đang nhìn người bạn đời chung sống mười mấy năm, mà như đang đối diện một vấn đề nan giải.
Bà cúi xuống, cẩn thận bóc lớp tơ trùm mũi miệng của tử thi để sang một bên.
“Ông ấy… chết thật chưa?” Lục Uyển Anh ôm chặt lấy cánh tay Hải Triều, run rẩy hỏi.
Hải Triều ngây người nhìn thi thể quái dị kia, không dám chắc đáp án.
Mắt Thạch Tứ Nhất trợn trừng, đã vẩn đục; gò má và quai hàm chi chít ban tím, vài chỗ còn bắt đầu sưng phồng. Thế nhưng lồng ngực vạm vỡ vẫn chậm rãi, ổn định nhấp nhô, từng sợi tơ mảnh từ đôi môi tím ngắt hé mở trào ra, nhanh chóng đan thành một lớp màng mới, phủ kín lại mũi miệng.
“Trời phạt…” Không biết ai khẽ buột miệng.
Hai chữ ấy như dịch bệnh lan nhanh, mọi người dường như quên mất răn đe trong Từ miếu ban sáng, ai nấy đều lẩm bẩm “trời phạt”, có kẻ đã quỳ xuống, dập đầu tạ tội với vị thần vô hình trên cao.
“Đừng nói nữa!” Lan Thanh quát, “Các người quên chuyện trong Từ miếu hôm nay rồi sao?”
Nhưng đám đông đã bị cảnh tượng quỷ dị này dọa mất hồn, làm gì còn nghe lời một kẻ ngoài tộc.
Người người bắt đầu xôn xao:
“Làm sao đây, Tằm Thần nương nương giáng hình phạt rồi…”
“E là cả làng sẽ gặp họa…”
“Không biết người tiếp theo chết là ai…”
“Đủ rồi!” Tộc trưởng quát lớn.
Uy nghi của bà vẫn còn đó, đám đông lập tức im bặt.
“Tối nay cử hành lễ Tế Âm Tằm.” Tộc trưởng day ấn đường, giọng mỏi mệt, “Nếu thần linh muốn giáng tội, thì giáng xuống Hạ La ta!”
Tộc trưởng đã nói đến mức ấy, dân làng cũng không ai dám cãi.
“Tản đi, tản đi hết!” Lan Thanh xua tay, “Tối còn phải chuẩn bị lễ vật Tế Âm Tằm, mau về lo đi.”
Đợi dân làng lục tục rời đi, Lan Thanh mới quay sang tộc trưởng, đầy lo lắng: “Thi thể Thạch đại thúc… phải làm sao?”
Tộc trưởng liếc xác chết: “Đốt.”
Lan Thanh ngẩn ra: “Nhưng A Lăng còn chưa nhìn mặt a cha lần cuối…”
Giọng tộc trưởng lạnh tanh: “Ngươi muốn để nó ghi nhớ mãi hình dạng nửa người nửa quỷ này của cha nó sao?”
Dứt lời, bà quay lưng, chậm rãi bước vào rừng dâu.
Lan Thanh khẽ nhíu mày, nhìn bóng lưng bà mà không nói gì.
Đợi tộc trưởng đi khỏi, hắn gọi hai dân làng: “Khiêng xác ra bãi đất trống.”
“Khoan.” Lương Dạ lên tiếng.
Lan Thanh liếc mắt: “Quý khách có cao kiến gì?”
Lương Dạ tiến lại gần, hạ giọng: “Các người không muốn biết ông ấy chết thế nào, ai hại ông ấy sao?”
Lan Thanh nhướng mày, ánh mắt đầy kinh ngạc: “Chuyện này… há là sức người làm nổi…”
“Cũng đúng.” Lương Dạ bình thản đáp, “Nhưng cảnh tượng này hiếm thấy vô cùng, một ngọn lửa thiêu rụi thì đáng tiếc.”
Mắt Lan Thanh lóe lên tia giận dữ: “Ngươi…”
Lương Dạ nói: “Lan huynh cũng là thầy thuốc, chẳng lẽ không muốn tìm hiểu?”
Lan Thanh chần chừ giây lát, khẽ gật đầu.
***