Chương 47: Thôn Kén Nữ (4)
***
Hải Triều vừa mới tỉnh, đầu óc còn mơ màng: “Đợi đã… ai sờ soạng huynh cơ?”
Lúc này Lục Uyển Anh cuối cùng cũng bị tiếng động của bọn họ làm cho tỉnh giấc, vừa ngồi dậy vừa che miệng ngáp: “Hải Triều, ta hình như nghe thấy giọng của Trình công tử…”
“Là ta…” Trình Hàn Lân ấm ức nói, “Lục nương tử, tạp gia bị quỷ ăn hiếp…”
Lục Uyển Anh giờ mới hoàn toàn tỉnh táo, vén chăn ngồi dậy, bưng cho Trình Hàn Lân một cái ghế đẩu nhỏ, lại rót một bát nước, dịu giọng: “Đừng sợ, từ từ nói.”
Trình Hàn Lân nâng bát uống một ngụm, mới bắt đầu kể: “Tạp gia đang ngủ ngon lành trên giường, mơ màng thì bỗng cảm thấy có một bàn tay lạnh toát thò vào trong chăn…”
Hắn nấc nghẹn một tiếng, uất ức kể: “Sờ ta!”
Hải Triều gãi má: “Ờm… sờ chỗ nào?”
Trình Hàn Lân lấy tay che mặt, vặn vẹo thắt lưng: “Tạp gia không tiện nói ra…”
Hải Triều: “Ồ.”
Trình Hàn Lân: “Ồ?!”
Hải Triều: “Huynh nhìn rõ mặt con quỷ đó không?”
Trình Hàn Lân lắc đầu: “Ta vừa tỉnh dậy, mới hét một tiếng thì nó đã chạy mất rồi. Trong phòng tối om, ta chỉ thấy một bóng đen.”
“Chỉ vậy thôi?” Hải Triều nói, “Có khi không phải quỷ đâu, có người đi nhầm phòng chăng?”
“Không chỉ vậy!” Trình Hàn Lân kể tiếp, “Ta cũng nghi là có người đi nhầm phòng, nhưng nửa đêm buồn ngủ rũ rượi, nên lại nằm xuống ngủ tiếp…”
“Khoan đã.” Hải Triều ngắt lời, “Lương Dạ đâu?”
Trình Hàn Lân hít hít mũi: “Tử Minh không có ở đó.”
“Hắn đi đâu rồi?”
“Lúc ta lơ mơ hình như nghe Tử Minh nói muốn nhân đêm đen đi loanh quanh trong làng xem xét một lượt, còn hỏi ta cất cái mặt nạ da người kia ở đâu.” Trình Hàn Lân nói, “Khi đó ta còn đang ngái ngủ, chỉ ừ một tiếng bảo hắn cẩn thận… sớm biết xảy ra chuyện như này, tạp gia đã đi cùng Tử Minh rồi!”
Hải Triều không khỏi có chút lo lắng, ngôi làng này khắp nơi đều có vẻ quỷ dị, hắn lại đi một mình, không có võ công, chân còn chưa lành hẳn, chẳng biết có gặp nguy hiểm gì không.
Đang suy nghĩ, lại nghe Lục Uyển Anh hỏi: “Sau đó còn chuyện gì nữa không?”
Trình Hàn Lân kể tiếp: “Sau đó còn kinh khủng hơn! Tạp gia nằm xuống ngủ tiếp, không biết qua bao lâu, bỗng thấy ngứa ngáy khắp người, đưa tay gãi thì…”
Hắn nghẹn ngào: “Thì phát hiện trong chăn có một con quỷ không mặc quần áo… đang… đang cởi… cởi y phục của tạp gia!”
Hải Triều và Lục Uyển Anh liếc mắt nhìn nhau, Hải Triều hắng giọng: “Huynh làm sao biết đó là quỷ?”
“Tạp gia ban đầu cũng tưởng là người, hét một tiếng, con quỷ đó bị ta dọa cho cuống cuồng lăn ra khỏi chăn…” Trình Hàn Lân nói, “Ta chỉ lờ mờ thấy một cái bóng trắng lồ lộ, nhưng khi ta ngồi dậy, buộc lại y phục xong thì nó đã biến mất rồi.”
Trình Hàn Lân nói: “Ta bật dậy kiểm tra, cửa thì then cài chắc chắn, trong phòng chỉ có một cửa sổ chấn song, mà chấn song bị đóng đinh chết, người không thể tự dưng biến mất được, thế thì chỉ có thể là quỷ, không thì là yêu nữ…”
Hải Triều liếc Lục Uyển Anh một cái, ngập ngừng trong chốc lát, cuối cùng vẫn nói: “Thế tức là con quỷ đó trước tiên sờ soạng huynh, lát sau lại chui vào chăn cởi y phục?”
Trình Hàn Lân gật đầu: “Chính là như vậy.”
Hải Triều: “Nó làm vậy để làm gì?”
Trình Hàn Lân ngẩn ra, rồi bất chợt kêu “á” một tiếng: “Hải Triều muội muội, đến cả muội cũng…”
Hải Triều xoa xoa vành tai nóng bừng: “Ở đây nghĩ thế nào cũng không ra manh mối, hay là… ngủ thêm một lát đi.”
Trình Hàn Lân lắc đầu như trống bỏi: “Cho tạp gia mượn một trăm lá gan cũng không dám quay lại ngủ, Hải Triều muội muội và Lục nương tử cứ ngủ đi, tạp gia ngồi ngoài sân đợi Tử Minh về.”
Vừa dứt lời, chợt nghe “két” một tiếng, cửa sân bật mở.
“Chắc là Tử Minh về rồi!” Trình Hàn Lân mừng như sắp khóc, lập tức chạy ra mở cửa, quả nhiên là Lương Dạ.
Hải Triều cũng đi theo ra ngoài, thấy tóc và vai áo của Lương Dạ bị sương đêm thấm ướt, trông có phần mỏi mệt.
Thấy bọn họ, trong mắt hắn thoáng hiện vẻ ngạc nhiên: “Sao các người…”
“Ngươi đi đâu vậy?” Hải Triều cắt lời hắn.
“Không ngủ được, nên ra ngoài dạo một vòng.” Lương Dạ vừa đáp vừa khép cửa viện lại.
“Một mình nửa đêm chạy loạn, nhỡ xảy ra chuyện thì sao?” Hải Triều cau mày nói.
Vừa dứt lời thì nhận ra câu này dễ gây hiểu lầm, bèn chữa lại: “Xảy ra chuyện gì không phải thành rắc rối cho chúng ta sao.”
Nàng chỉ tay vào Trình Hàn Lân: “Ngươi vừa đi thì Trình công tử gặp quỷ.”
Lương Dạ nhướn mày: “Xảy ra chuyện gì?”
Trình Hàn Lân kể lại đầu đuôi mọi chuyện.
Lương Dạ trầm ngâm giây lát, rồi nói: “Trước tiên vào phòng xem một lượt đã.”
Trình Hàn Lân còn lưỡng lự đứng ở cửa phòng, đợi Hải Triều và Lương Dạ bước vào, thắp đèn lên, hắn mới rón rén từng bước lết vào trong.
Phòng này so với gian của Hải Triều và Lục Uyển Anh thì rộng hơn một chút, có trải hai chiếc giường, tường đối diện lắp một dãy giá đỡ rộng lớn, từ nền đất cao lên tận trần nhà.
Trình Hàn Lân vốn hiểu biết rộng: “Chỗ này dùng để đặt nong tằm.”
Lúc này trên giá đỡ tất nhiên trống không, bên cạnh chất đống ít đồ lặt vặt, như giỏ trúc cũ, thùng mây rỗng các loại.
Lương Dạ liếc mắt nhìn một cái, lại hỏi kỹ Trình Hàn Lân về tình huống hai lần gặp “quỷ”, rồi quả quyết: “Không phải quỷ, là người, mà là hai người.”
Trình Hàn Lân: “Sao lại là hai người?”
Hải Triều thì bừng tỉnh ngộ: “Vừa rồi ta còn lấy làm lạ, sao con ‘quỷ’ đó biết rõ huynh là thái giám mà vẫn chui vào chăn huynh…”
Lương Dạ ho khẽ một tiếng.
Hải Triều liếc hắn một cái, chẳng phải chê nàng ăn nói thô lỗ đấy chứ? Nàng vốn là kẻ quê mùa, có phải thiên kim tiểu thư gì đâu. Dân thôn Đản tính tình hào sảng, cũng chẳng kiêng kỵ gì mấy chuyện nam nữ.
Hải Triều mười mấy tuổi đã biết nam nhân nữ nhân ngủ chung sẽ sinh ra tiểu hài tử, Lương Dạ cũng lớn lên trong thôn, nàng hiểu gì hắn cũng hiểu, nay lại bày vẻ đạo mạo làm chi.
Trình Hàn Lân nghĩ ngợi một lúc, đành thừa nhận, dù là kẻ háo sắc hay là quỷ thật, thì với thân thể tàn tật này của mình, cũng chẳng có chỗ nào để lợi dụng cả.
“Nhưng mà người thì sao lại có thể tự dưng biến mất? Khi đó cửa nẻo đều đóng mà…” Hắn gãi gãi má.
“Nàng ta đâu có biến mất.” Lương Dạ nói, “Lúc huynh mở cửa, người đó vẫn còn trong phòng.”
Hắn chỉ vào tầng dưới của giá đỡ: “Chắc lúc huynh đang mặc đồ, nàng ta cuộn người núp ở góc cạnh giá.”
“Nhưng mà, nhưng mà…” Trình Hàn Lân ho nhẹ một tiếng, “Lúc đó nàng ta không mặc gì cả, quá mức bắt mắt…”
Lương Dạ nói: “Chỉ cần dùng vải sẫm màu hay quần áo che lên là được, mẹo che mắt đơn giản thôi, mà góc tường vốn đã có một đống đồ lặt vặt.”
“Nhưng cửa có then cài, cửa sổ cũng không thể trèo vào, người đó làm sao mà vào được?” Hải Triều hỏi.
Lương Dạ quay sang hỏi Trình Hàn Lân: “Lúc ta ra ngoài, huynh có dậy khóa cửa không?”
Trình Hàn Lân hồi tưởng một lúc, rồi lắc đầu.
Lương Dạ nói: “Lúc ta ra ngoài thì không thể khóa cửa từ bên ngoài, chỉ khóa bằng chìa khóa thôi. Cái then đó là do người kia vào phòng rồi mới cài lại.”
Hải Triều không hiểu: “Người đó lẻn vào phòng giữa đêm như vậy, sao lại cài then? Không phải như thế sẽ gây khó dễ khi cần chạy trốn sao?”
Lương Dạ liếc Trình Hàn Lân một cái: “E là sợ người trong phòng bỏ trốn thì đúng hơn.”
Trình Hàn Lân rùng mình một cái: “Tử… Tử Minh, đừng dọa tạp gia…”
Hải Triều vỗ nhẹ lưng hắn: “May mà huynh là thái giám.”
Trình Hàn Lân mặt mày rũ rượi gật đầu: “Không thì cái mạng nhỏ của tạp gia e là khó giữ rồi.”
“Chưa chắc đã mất mạng.” Lương Dạ nói.
“Nhưng trinh tiết thì chắc chắn không giữ nổi.” Hải Triều thuận miệng tiếp lời.
Nàng quay sang Lương Dạ: “Vậy hai người đó có chìa khóa sao?”
“Người đầu tiên nhất định là có.” Lương Dạ nói, “Còn người thứ hai thì chưa chắc, có khi người đầu tiên đi rồi không khóa cửa, nên người thứ hai mới lẻn vào được.”
Hải Triều gật đầu, ngáp một cái.
“Trước cứ về phòng ngủ đã.” Lương Dạ nói.
Hải Triều bước tới cửa, chợt nhớ ra một chuyện, bèn dừng bước quay lại: “Chẳng phải người trong làng đều biết Trình Hàn Lân là thái giám sao?”
Trình Hàn Lân sụt sịt một tiếng.
Hải Triều cắn môi, nhìn Lương Dạ, lông mày cau chặt: “Người đó nhằm vào ngươi!”
Trình Hàn Lân trợn to mắt: “Phải đó! Hải Triều muội muội quả là nói trúng ngay trọng tâm!”
Trên mặt Lương Dạ thoáng lướt qua vẻ bối rối, Hải Triều thấy sắc mặt ấy là biết ngay hắn hẳn đã sớm đoán được rồi.
Vừa nghĩ đến chuyện suýt nữa có người chui vào chăn của Lương Dạ, toàn thân Hải Triều như bị kim đâm, tê dại đến ngứa ngáy. Nhưng nghĩ lại, nàng với hắn vốn chẳng có gì, dựa vào đâu mà để tâm chuyện của hắn, đành cứng nhắc ném lại một câu: “Cài chốt cửa cho kỹ!” Rồi không ngoái đầu mà đi thẳng một mạch.
Nằm trở lại giường, Hải Triều lấy chăn đắp kín mặt, buồn bực một hồi chẳng rõ từ đâu sinh ra, chợt nhớ ra vừa rồi quên hỏi Lương Dạ, hắn lấy cái mặt nạ da người đó làm gì rồi?
*
Sáng hôm sau là lễ tế Thần Tằm, đoàn người Hải Triều được mời đến dự, vừa tờ mờ sáng, Lan Thanh đã đến gõ cửa gọi dậy.
Chỉnh tề rửa mặt xong xuôi, bốn người theo Lan Thanh đi về phía Từ miếu dưới sườn núi.
Lan Thanh vẫn tươi cười như thường: “Chư vị khách quý tối qua ngủ ngon chứ?”
Hải Triều liếc nhìn Trình Hàn Lân: “Chúng ta ngủ cũng yên ổn, chỉ là Trình công công hơi bị hoảng một phen thôi.”
Trình Hàn Lân mắt quầng thâm như gấu trúc, ngáp liên tục: “Còn gì nữa.”
Lan Thanh lộ vẻ hiểu rõ, vuốt lại tóc, cười khổ: “Thật là… tộc trưởng hôm qua đã dặn kỹ không được làm phiền quan nhân triều đình, không ngờ vẫn có kẻ gan to bằng trời…”
“Chuyện như vậy… xảy ra thường xuyên à?” Hải Triều hỏi.
Lan Thanh thoáng lộ vẻ ngượng ngập: “Không giấu gì khách quý, tiểu dân khi mới đến đây cũng từng gặp phải… nhưng khách quý đừng hiểu lầm, nơi này phong tục thuần phác, tuyệt không phải kiểu dâm tục thịnh hành, chỉ là dân làng tin rằng, kết hợp với người ngoài thì dễ sinh nữ nhi hơn… Năm đầu tiểu dân ở trong làng, bị quấy rầy không ít, sau này họ biết tiểu dân không có ý ấy thì mới thôi.”
Trình Hàn Lân há hốc miệng, một lúc sau mới thốt lên: “Ngay cả quan nhân triều đình mà cũng dám…”
Lan Thanh mỉm cười: “Thôn xóm ẩn cư nơi núi sâu, hiểu biết hạn hẹp, tuy biết là người của triều đình, nhưng chưa từng lĩnh hội được thiên uy, tự nhiên lòng kính sợ cũng ít hơn.”
Nói đoạn, hắn quay sang nhìn Lương Dạ: “Đêm nay khách quý vẫn nên cẩn trọng thì hơn.”
Hải Triều nhớ tới lời hắn vừa nói, không khỏi nghi hoặc: “Sinh nữ nhi khó đến vậy sao? Ta thấy nam nữ trong làng cũng tương đối cân bằng mà?”
Sắc mặt Lan Thanh chợt tối lại, tựa như có tầng mây u ám thoáng qua giữa mày mắt.
Hắn lắc đầu: “Nam nữ trong làng kết hợp, cứ bốn đứa trẻ sinh ra thì có ba là con trai, chỉ một đứa là con gái.”
Hải Triều: “Thế thì tại sao…”
“Bởi vì phần lớn bé trai không sống nổi, chưa tròn tuổi đã chết non rồi.”
Trong chốc lát, tất cả đều lặng thinh.
May là họ cũng vừa đi đến trước cửa Từ miếu, Lan Thanh khom mình đưa tay mời: “Khách quý, xin mời.”
Vừa bước vào miếu, đập vào mắt là bức tượng Mã Đầu Nương cao đến một trượng, giống hệt như bức đặt dưới gốc cây hôm nọ, chỉ là bản phóng to khiến người ta càng thấy rợn ngợp.
Tượng thần hơi cúi đầu, đôi mắt chân thực đến mức như đang cúi xuống nhìn tất cả chúng sinh.
Hải Triều bị cặp mắt quái lạ đó nhìn đến ngột ngạt, vội vàng dời ánh mắt đi chỗ khác.
Trong miếu đã chật kín người, nữ tử đều mặc áo lụa, các thiếu nữ chưa xuất giá thì mặc váy lụa đỏ, tóc xõa ngang vai, phụ nhân thì mặc váy đỏ thẫm, búi tóc ngay ngắn chỉnh tề.
Nam nhân cúi đầu, buông tay đứng sau lưng, cũng thay lễ phục, nhưng đơn sơ hơn nữ nhiều, chỉ là vải thô nguyên màu, không hoa văn không thêu thùa.
Hải Triều đảo mắt tìm một hồi trong đám đông, không thấy A Miên cũng không thấy thiếu niên hung dữ như sói kia.
Nàng không nhịn được mà ghé tai hỏi Lan Thanh.
Lan Thanh đáp: “Thiếu niên mà khách quý nói, hẳn là A Ế. Hắn là đứa trẻ tộc trưởng nhặt được trong núi, thân thể tàn tật, A Miên thì đầu óc không tỉnh táo. Theo quy củ truyền đời trong tộc, kẻ tàn khuyết không được tham gia tế lễ, tránh làm kinh động thần linh.”
Trong biển người đỏ trắng ấy, chỉ có tộc trưởng và một người nữa toàn thân mặc áo bào đen, tộc trưởng đầu cài bảy cây trâm vàng, vừa hoa lệ vừa trang nghiêm, nhưng mỗi đầu trâm đều được tạc thành hình đầu ngựa của nương nương; người còn lại thì đeo mặt nạ hình đầu ngựa bằng vàng ròng, tay trái cầm một cây trượng gỗ cổ xưa, đầu trượng treo một chuỗi chuông đồng ánh xanh.
Hẳn đó chính là Đại Vu mà họ vẫn nhắc tới. Hải Triều nghiêng người ghé tai Lục Uyển Anh thì thầm.
Lục Uyển Anh khẽ gật đầu, giữa chân mày lộ vẻ e dè.
Tộc trưởng bước đến chào hỏi vài câu, rồi quay đầu hỏi Lan Thanh: “Tìm được Thạch Tứ Nhất chưa?”
Hải Triều để ý thấy dù bà ta gọi phu quân mình bằng tên như người ngoài, nhưng giọng nói lộ rõ lo lắng và sốt ruột.
Lan Thanh lắc đầu: “Trong thôn đã tìm khắp từng nhà một, vẫn không thấy tung tích Thạch đại thúc. Có cần phái thêm người đi tìm ở núi gần đây không?”
Tộc trưởng nhíu mày trầm ngâm một lúc, rồi lắc đầu: “Không cần, lễ tế quan trọng hơn, đợi làm xong rồi sai người đi tìm cũng chưa muộn.”
“Vâng.” Lan Thanh cúi mình đáp lời.
Đúng lúc đó, tiếng chuông đồng “đang đang” vang lên, trong trẻo mà xa xăm ngân dài.
Những nữ tử đang trò chuyện tức thì im bặt, ai nấy cúi đầu thu ánh mắt, vây quanh thần tọa xếp thành từng vòng cung.
Khách quý được mời an tọa dự lễ.
Lan Thanh dẫn họ đến hàng ghế dành cho khách đặt ở phía tây của tượng thần, trên tấm thảm gấm thêu lộng lẫy trải sẵn bốn chiếc ghế cao. Đợi bọn họ lần lượt ngồi vào, hắn mới đứng hầu một bên.
Hải Triều hơi nghi hoặc: “Ngươi không cần đứng cùng những nam nhân khác sao?”
Lan Thanh mỉm cười nhàn nhạt: “Tiểu dân cũng là người ngoài, ở đây dự lễ là được rồi.”
Đại Vu giơ cao cây trượng gỗ trong tay, mạnh mẽ nện xuống đất, chuông đồng lại vang lên một tiếng rung động.
Tộc trưởng hai tay chắp ngang bụng, cúi đầu lui về đầu hàng, rồi quỳ sụp xuống đất.
Những người còn lại cũng như thủy triều tràn đến, rạp mình quỳ lạy.
Đại Vu chậm rãi bước đến trước tượng thần, đứng đối diện đám đông, giống như hóa thân của thần linh chốn nhân gian.
Hắn khẽ lay động cây trượng, tiếng chuông nhỏ rơi lách cách, tộc trưởng dẫn đầu nằm rạp sát đất, tay duỗi thẳng ra trước, lưng uốn thành vòng; toàn thể nữ tử cũng rập khuôn, phủ phục sát đất, thân hình uốn éo, từng người từng người như rắn đang bò.
Hải Triều nhìn thấy cảnh ấy, cảm thấy sau lưng như có rắn trườn qua, tê dại khó chịu đến rợn người.
Tiếng chuông ngừng lại, đám nữ nhân cũng ngừng động, tộc trưởng ép sát hai tay vào thân, ngẩng đầu lên cao, những người khác cũng làm theo. Nhìn qua cứ như hàng trăm con tằm đồng loạt ngẩng đầu nhả tơ.
Đại Vu đặt cây trượng ngang, hai tay nắm lấy, giơ cao qua khỏi đầu, cất tiếng ngâm nga bài tế cổ xưa bằng giọng khàn khàn, chẳng rõ là thứ ngôn ngữ gì, Hải Triều nghe chẳng hiểu nổi một chữ.
Nàng liếc nhìn người xung quanh, thấy vẻ mặt Lương Dạ điềm đạm, ánh mắt lạnh nhạt; còn Trình Hàn Lân và Lục Uyển Anh thì giống như nàng, đều ngồi mà như có kim châm dưới đệm.
Ước chừng một nén nhang trôi qua, Đại Vu cuối cùng cũng hát xong bài tế, mạnh mẽ nện trượng xuống đất, đám nữ nhân phía dưới mới ngừng động tác kỳ dị, toàn bộ nằm rạp bất động dưới đất.
“Mời Tằm vàng!” Đại Vu cất giọng hô vang.
Mọi người lặng lẽ chờ đợi, nhưng không có gì xảy ra.
Đại Vu nện trượng mạnh hơn: “Thỉnh Thần Tằm nương nương ban xuống giống tằm vàng!”
Thế nhưng vẫn không có gì xuất hiện, bầu không khí lo âu bắt đầu lan tràn trong Từ miếu.
Hải Triều nhịn không được, khẽ hỏi Lan Thanh: “Họ đang chờ gì vậy?”
Lan Thanh hạ giọng thấp đến mức khó nghe thấy: “Trong đầu tượng Mã Đầu Nương Nương có nuôi một con Thần Tằm, đến đoạn này của nghi lễ, theo lẽ thường, Thần Tằm sẽ từ miệng Mã Đầu Nương Nương bò ra, đẻ giống tằm vàng vào trong hộp bạc đặt trước thần tọa…”
Hải Triều gật đầu, không hỏi gì thêm.
Lần thứ ba, Đại Vu nện mạnh cây trượng, hiển nhiên dốc toàn lực, khiến cả bệ thần cũng khẽ rung lên.
Chỉ trong khoảnh khắc, “ầm” một tiếng vang trời, có vật gì đó rơi thẳng xuống đất.
Hải Triều định thần nhìn kỹ, thấy tượng thần gãy ngang cổ, cả cái đầu rơi xuống nền, lập tức vỡ vụn tan tành.
Giữa đống vụn gỗ vương vãi, rõ ràng là một con tằm khổng lồ.
Con tằm ấy toàn thân ánh kim, to cỡ bắp tay người thường, lúc này nằm bất động trên mặt đất, hiển nhiên đã chết từ lâu.
Cả miếu thờ lập tức chìm vào im lặng như tờ, chỉ có nỗi sợ hãi đang cuộn trào như sóng lớn bao trùm khắp không gian.
Không rõ qua bao lâu, đột nhiên có người thét lên: “Thần Tằm chết rồi! Máu nhuộm lụa trắng, máu nhuộm lụa trắng, trời phạt đến rồi! Trời phạt đến rồi!”
***