Chương 44: Thôn Kén Nữ (1)
***
Vừa bước qua cánh cửa, bên tai Hải Triều đã vang lên tiếng ầm ầm như sấm, định thần nhìn lại, chỉ thấy đôi bên là núi xanh vách đứng ngàn trượng, đối xứng như hai bàn tay chắp lại. Một dải đá hẹp vắt ngang thung lũng u tối, chỉ đủ một người qua, bên mép đá có dòng thác trắng xóa tuôn trào như tuyết, tiếng nước đổ vang dội như sấm động.
Lại nhìn sang bốn người đồng hành, Trình Hàn Lân khoác trường bào lụa thêu màu đỏ, đầu đội mũ sa đen, lưng đeo đai bạc, trông rõ dáng vẻ quan lại. Lục Uyển Anh cũng cải trang nam tử, áo bào cổ tròn màu lam, đầu đội khăn đen, so với vẻ nho nhã yếu mềm trước kia, lúc này càng thêm vài phần nhanh nhẹn hiên ngang.
Lương Dạ thì vận áo trắng vải gai, đầu đội khăn gập, dáng vẻ thư sinh.
Hải Triều cúi đầu nhìn lại mình, toàn thân vận đồ ngắn đen, chân đi ủng da đen, đai lưng đỏ treo ngang một thanh đao, đầu còn đội nón đấu làm bằng tre.
Ngoài bốn người, họ còn có một con ngựa và một gói hành lý lớn.
Trình Hàn Lân giơ tay sờ lên mũ sa, lại nâng ống tay áo nhìn ngắm, hớn hở nói: “Lần này không phải đạo sĩ nữa rồi, nhìn y phục là biết làm quan, phẩm cấp cũng không thấp, chỉ tiếc là phụ thân ta không nhìn thấy dáng vẻ rạng rỡ tổ tông này!”
Hải Triều luôn cảm thấy có gì là lạ, nghĩ ngợi một hồi rồi hỏi: “Sao huynh cứ nói bằng giọng mũi the thé thế?”
“Hả?” Trình Hàn Lân khẽ ho khan, “Có à? Ta không nhận thấy.”
“Ra khỏi bí cảnh rồi gặp được cha huynh chưa?” Hải Triều hỏi tiếp.
“Đừng nhắc nữa.” Trình Hàn Lân ủ rũ đáp, “Trước khi vào Tây Châu chẳng phải ta đang ở trong sa mạc à? Vừa ra khỏi bí cảnh thì gặp bão cát, ta phải rúc dưới bụng lạc đà suốt nửa ngày, miệng đầy cát, lại cuốc bộ một ngày đường, giờ thì lưng đau nhức ê ẩm, chẳng thà đừng về còn hơn.”
“Còn Lục tỷ tỷ thì sao?” Hải Triều quay sang hỏi Lục Uyển Anh, “Đã về nhà chưa?”
Trên gương mặt Lục Uyển Anh thoáng qua một tia u ám, nhưng rất nhanh đã mỉm cười nhẹ: “Về rồi, nghỉ ngơi ở nhà một hôm.”
Hải Triều thoáng lo lắng: “Không xảy ra chuyện gì chứ?”
Lục Uyển Anh vội lắc đầu, nhưng ánh mắt lại có chút né tránh: “Trong nhà vẫn ổn cả.”
Hải Triều sao không nhận ra nét mặt nàng có gì đó bất thường, nhưng trước mặt người khác không tiện gặng hỏi, chỉ gật đầu: “Vậy thì tốt.”
Rồi quay sang Trình Hàn Lân nói: “Xem trong hành lý có những gì đi.”
“Phải rồi.” Trình Hàn Lân vừa nói vừa mở hành lý ra, ngoài vài bộ quần áo thay đổi, chút vàng bạc tiền đồng cần thiết, còn có cả chiếc túi vải từng dùng trong bí cảnh trước.
Mở ra xem, phù chú chu sa, đan hoàn, tiên lộ các loại đều còn đủ, kim châm của Lục Uyển Anh và pháp loa của tên Sa môn giả cũng nằm trong đó.
Dĩ nhiên cũng không thể thiếu…
Trình Hàn Lân bỗng kêu rên một tiếng: “Cái gương này sao cũng theo đến đây vậy!”
“Đó là pháp khí của huynh mà, đương nhiên phải bám lấy rồi.” Hải Triều nói.
Vẻ mặt Trình Hàn Lân như đưa tang, dùng tấm vải đỏ bọc kín chiếc gương đồng lại, nhét vào tận đáy hành lý. “Phù……”
“Ồ, cái gì đây?” hắn lại móc ra được một vật khác trong túi hành lý, nhìn như một mảnh giấy mỏng ngả vàng, trong suốt.
“Là giấy à?” Hải Triều hỏi.
“Không giống.” Trình Hàn Lân nghi hoặc vò vò thử, rồi giơ lên trước ánh mặt trời nhìn: “Mềm, hơi dai, còn có ba cái lỗ……”
Hải Triều nhìn thấy thứ đó có chút quen mắt, bỗng linh quang lóe lên: “Đây chẳng phải là mặt quỷ sao! Chẳng lẽ là… da mặt?”
Trình Hàn Lân “á” lên một tiếng rên rỉ, hoảng hốt vung tay quăng ra.
Gió núi thổi mạnh, vật kia nhẹ như giấy suýt chút nữa bị cuốn đi mất, may mà Hải Triều nhanh mắt lẹ tay, rút vỏ đao hất một cái, vừa khéo xuyên qua một lỗ, móc lại được.
Quả nhiên là một lớp da mặt, mỏng nhưng dẻo dai, ánh lên lớp bóng như mỡ, trông giống da người đã qua xử lý bằng phèn.
Hải Triều chạm thử, cảm giác trong tay có chút kỳ dị.
Trình Hàn Lân giọng run lên: “Hải… Hải Triều muội muội, muội không sợ à?”
Lục Uyển Anh cũng biến sắc mặt, không dám lại gần.
Hải Triều tuy đã đâm không biết bao nhiêu mặt quỷ, ít thì cũng mấy chục, sớm đã chai lì, nhưng dù sao đây là thứ giống như da người, sờ vào vẫn có chút khó chịu, bèn buông tay để nó rơi trở lại hành lý: “Trông như là một mảnh da người bình thường, cũng không rõ để làm gì.”
“Chẳng lẽ là để lại cho chúng ta làm kỷ niệm?” Trình Hàn Lân xoa cằm suy nghĩ.
Hải Triều: “… Nếu như huynh muốn.”
Không nhìn ra manh mối gì, mọi người đồng lòng quyết định giữ lại xem sau.
Trình Hàn Lân mở hết mọi gói hành lý ra kiểm tra một lượt, tìm được một tập giấy gấp: “Tốt quá, vẫn còn giấy thông hành, xem xem chúng ta mang thân phận gì.”
Hắn lướt qua một lượt: “Lục nương tử là nữ quan của Thượng phục cục, ta là Thái giám Lĩnh Lăng cẩm sứ của Điện Tiền tư, đang trên đường đến một thôn hẻo lánh trong núi sâu Thục Châu, tên gọi ‘Thôn Kén Nữ’, để thu nhận cống phẩm….”
Hắn đưa tay che trán, nhìn về khe núi xa xa, thấy mây mù ráng đỏ cuồn cuộn, thấp thoáng những nông hộ rải rác giữa thung sâu, khung cảnh tĩnh mịch an hòa, tựa như chốn đào nguyên trong truyền thuyết nhân gian.
Hắn trau chuốt giơ ngón lan hoa chỉ lên chỉ: “Nhìn kìa, phía trước có một thôn trang, chắc hẳn chính là ‘Thôn Kén Nữ’ được ghi trong giấy thông hành.”
Ba người còn lại nhìn bàn tay hắn, vẻ mặt đều có phần khó tả.
Trình Hàn Lân không hề hay biết, vẫn tiếp tục thao thao: “Tử Minh là học sĩ Hồng Văn quán, đi đường hồi hương chịu tang thuận tiện đồng hành cùng chúng ta; Hải Triều muội muội là tiêu sư do chúng ta thuê… Ồ ồ, thì ra là vậy, khó trách tạp gia… Ấy khoan đã…”
Sắc mặt hắn bỗng chốc thay đổi: “Cái gì mà tạp gia, cái gì mà thái giám?! A a a!”
Hải Triều: “Đừng cuống, kiểm tra trước đã, xem là thái giám thật hay giả.”
“Phải phải!” Trình Hàn Lân vội chạy ra sau một gốc đại thụ.
Chốc lát sau, từ sau cây truyền ra một tiếng kêu gào rung động cả trời xanh.
Một lúc lâu, Trình Hàn Lân bước ra từ phía sau thân cây, vẻ mặt u ám không còn gì luyến tiếc, rưng rưng nước mắt nhìn Lương Dạ: “Tử Minh…”
Lương Dạ lạnh nhạt nói: “Nén bi thương.”
Hải Triều vỗ vỗ lưng hắn, an ủi: “Ít ra cha huynh cũng không nhìn thấy bộ dạng này… Nhanh chóng giải quyết bí cảnh này xong, ra ngoài là được.”
Trình Hàn Lân lấy tay áo lau nước mắt: “Hải Triều muội muội thật biết cách an ủi người ta, chỉ cần ra ngoài là còn trong sa mạc, tạp gia nhất định vui chết mất.”
Hải Triều: Sao mới làm thái giám có một lúc mà người cũng đổi sang giọng eo éo thế này…
Lương Dạ liếc ánh tà dương ở tây thiên: “Không còn sớm nữa, đến thôn vẫn còn một quãng đường dài, đi thôi.”
Trình Hàn Lân dắt ngựa, mấy người lần lượt băng qua cầu đá, Hải Triều đi sau cùng.
Ngay lúc nàng bước đến đầu cầu đá, bỗng nghe sau lưng “ầm” một tiếng chấn động, quay đầu nhìn lại, chỉ thấy cây cầu đá vừa đi qua đã gãy đôi từ giữa, một nửa rơi xuống vực sâu không đáy bên dưới.
Mấy người nhìn nhau, sắc mặt đều có phần khó coi.
Hiển nhiên cầu đá này là con đường duy nhất dẫn ra khỏi núi. Nay cầu đã gãy, đồng nghĩa đường thoát thân cũng bị cắt đứt.
Ở bí cảnh trước họ còn có thể tự do ra vào phủ đệ, thậm chí rời khỏi cả Vu Thành, nhưng lần này bí cảnh đã hoàn toàn nhốt họ trong rừng sâu núi thẳm. Chỉ nghĩ đến việc thoát ra được cũng đã khó như lên trời.
“Đã đến thì an tâm ở lại.” Lương Dạ nói, “Đi thôi.”
Hải Triều cũng nói: “Lần trước nguy hiểm vậy mà còn thoát được, lần này chắc chắn cũng sẽ toàn vẹn trở ra…”
Nàng liếc nhìn Trình Hàn Lân, lại đổi giọng: “Không chắc toàn vẹn, nhưng nhất định sẽ còn sống quay về.”
Quả đúng như câu “trông núi chạy chết ngựa”, ngôi làng trông như trước mắt, vậy mà bốn người men theo núi đi suốt gần hai canh giờ, mãi đến khi mặt trời gần khuất núi, mới đến được cổng làng.
Đập vào mắt là một cây dâu cổ thụ khổng lồ, thân cây to đến độ ba bốn người ôm mới xuể, cành lá sum suê che kín ánh trời, trông như một tòa nhà lớn tự nhiên.
Kỳ lạ hơn, lá trên cây dâu này lại có năm màu. Bốn người đứng ở đầu làng nhìn về phía đó, ngắm nhìn cổ thụ trong ánh tà dương rực rỡ phát ra muôn vạn tia hào quang, đẹp đến nao lòng.
Lại bước gần thêm, mới phát hiện giữa thân cây dâu có một khoảng rỗng, bên trong đặt một pho tượng đen tuyền.
Ban đầu Hải Triều tưởng là tượng thần Phật thông thường, nhìn kỹ mới phát hiện có điều quái dị, tượng thần kia bị bao phủ bởi một lớp kén giống như tơ tằm, chỉ để hở khuôn mặt của một nữ tử. Nói là mặt nữ tử, lại chẳng giống lắm, trông như bị một đứa trẻ nhào nặn tùy ý mà thành.
Khuôn mặt đó méo mó vặn vẹo, vừa dài vừa gầy, hai tai nhọn mọc trên đỉnh đầu, một to một nhỏ, không có miệng, chỗ miệng chỉ là một cái lỗ nhỏ, từ đó có sợi chỉ đỏ thẫm thò ra, quấn mấy vòng quanh cổ.
Toàn bộ pho tượng tuy tạc thô sơ, nhưng riêng đôi mắt lại sống động dị thường, đến cả vẻ kinh hãi trong ánh mắt cũng được khắc họa tinh tế rành rẽ.
Cả bức tượng nửa người nửa không, nửa thô ráp nửa tinh xảo, quái dị đến mức khiến người ta rùng mình.
Trong lòng Hải Triều bất an, muốn dời mắt đi, nhưng lại như bị ma lực nào đó từ pho tượng hút lấy, không sao rời mắt nổi.
“Cái… cái thứ này là gì vậy…” Hải Triều rùng mình, xoa xoa lớp da gà nổi khắp tay.
“Nếu tạp… nếu ta đoán không sai…” Trình Hàn Lân nói, “Thì đây chính là Mã Đầu Nương.”
“Mã Đầu Nương?”
“Là Thần Tằm trong truyền thuyết.” Trình Hàn Lân nói đến đây, hai mắt sáng rỡ, tạm thời quên cả nỗi đau thân thể tàn khuyết: “Theo sách Sưu Thần Ký của Càn Bảo thời Tấn có ghi, thời Thái Cổ có một nhà chỉ gồm hai cha con và một con ngựa đực do nữ nhi nuôi.
“Người cha xuất chinh, đi mãi không về, nữ nhi nhớ cha, liền đùa với ngựa rằng: ‘Nếu ngươi có thể đưa cha ta trở về, ta sẽ lấy ngươi.’ Không ngờ con ngựa thật sự chạy đến doanh trại, cõng cha nàng quay về.
“Sau đó con ngựa tuyệt thực không ăn, người cha thấy lạ bèn hỏi nữ nhi, nàng thú thật mọi chuyện. Người cha giận dữ, giết chết con ngựa, lột da phơi khô. Nữ nhi vì đùa nghịch, giẫm lên tấm da ngựa kia, chẳng ngờ da ngựa bất ngờ cuốn lấy nàng, bay vút đi.
“Vài ngày sau, nàng và tấm da ngựa xuất hiện giữa cành cây lớn, đã hóa thành tằm, nhả tơ kết kén trên cây. Về sau, người ta gọi loài cây ấy là tang (cây dâu trong tiếng Hán Việt), tang sự tang gia.”
Hắn ngừng lại một chút: “Sau này dân gian gọi Thần Tằm là Mã Đầu Nương, nhiều nơi có miếu thờ vị thần này…”
“Những pho tượng trong miếu cũng kinh dị vậy sao?” Hải Triều hỏi.
Trình Hàn Lân lắc đầu: “Thông thường đều là tượng nữ nhân cưỡi ngựa, không quái dị như thế này.”
Hải Triều lại nhìn sang tấm bia đá dưới gốc cây, chữ khắc trên đó đã mờ nhòe, miễn cưỡng mới nhận ra ba chữ “Thôn Kén Nữ”, nét chữ non nớt, như thể trẻ con tùy ý khắc lên.
“Cái tên thôn này cũng kỳ quặc thật.” Hải Triều nói, “Thôn Kén Nữ… chẳng lẽ trong thôn toàn là nữ nhân sao?”
Lời vừa dứt, bỗng nghe Trình Hàn Lân “A!” lên một tiếng thảm thiết, lùi lại mấy bước rồi ngồi phệt xuống đất.
Sau khi thành thái giám, giọng hắn dường như càng cao vút, tiếng la hét cũng trở nên chói tai nhức óc, khiến màng nhĩ Hải Triều đau nhói.
Nàng vô thức đặt tay lên chuôi đao: “Sao vậy?”
Trình Hàn Lân dụi dụi mắt: “Lạ thật, vừa nãy ta rõ ràng thấy có người treo lơ lửng trên cây… chẳng lẽ hoa mắt rồi?”
“Ở đâu mà có…” Hải Triều còn chưa nói hết câu, thì đột nhiên từ giữa tán lá rũ xuống hai bàn chân trần trắng hếu.
“Ai đó?!” Nàng quát lớn.
Chưa dứt lời, lưỡi đao đã rút khỏi vỏ.
Từ trong tầng tầng lá cây vang lên một tràng cười lanh lảnh, vốn như tiếng chuông bạc du dương, nhưng chẳng hiểu sao lại khiến người nghe sởn gai ốc, rờn rợn như phát cuồng.
Chẳng bao lâu, tiếng cười đột ngột ngưng bặt, kỳ lạ như khi nó bắt đầu.
Ngay sau đó, đôi chân trắng hếu kia cũng rút lại vào trong tán lá.
Khi mọi người còn đang ngơ ngác, thì nghe “phịch” một tiếng, một người từ trên cây treo ngược đầu xuống, mặt đối mặt với Hải Triều, gần đến độ suýt chạm mũi nhau.
Dù gan Hải Triều có lớn, lúc này cũng bị hù đến thót tim, suýt nữa đã vung đao chém tới. May mà trước khi hạ thủ, nàng đã nhìn rõ đó là một khuôn mặt còn sống.
Một khuôn mặt của người sống.
Thiếu nữ chừng mười lăm mười sáu tuổi, thân hình gầy nhỏ yếu ớt, mái tóc dài như thác đổ suýt chạm mặt đất, càng tôn thêm gương mặt xinh đẹp đến kinh tâm động phách.
Thắt lưng nàng buộc một dải lụa trắng thật dài, đầu còn lại buộc trên nhánh cây cao, chính nhờ vậy mà nàng treo ngược người từ trên cây xuống.
“Ngươi là ai?” Hải Triều không kìm được bị ánh mắt nàng cuốn hút, đôi mắt ấy trong veo vô tội, tựa như một đứa trẻ chưa từng biết mùi đời.
Thiếu nữ kia dường như không hiểu nàng nói gì, chỉ cười khúc khích, đu đưa nhẹ nhàng theo làn gió cùng với dải lụa trắng.
“Ngươi là người trong thôn này sao?” Lục Uyển Anh hỏi.
Thiếu nữ mút ngón tay cái bên trái, phát ra tiếng chùn chụt, cứ thế vừa mút vừa cười.
Đây rõ ràng là biểu hiện của trẻ thơ, Hải Triều hiểu ra, thiếu nữ này tám phần là kẻ tâm trí không vẹn toàn.
Đang nghĩ vậy, nàng kia bỗng nắm lấy dải lụa trắng, xoay người một cái rồi tháo nút thắt bên hông, nhảy xuống đất. Nàng ngoái đầu mỉm cười với họ một cái, sau đó không quay lại nữa, cắm đầu chạy vào trong thôn, vừa chạy vừa ngân nga hát: “Tang ngũ sắc, trồng bên mây; da ngựa bọc lấy nữ mỹ miều; Tằm hoa nương nương thân sắc trắng, thân sắc trắng, ai đến hái? Mọi người hái, hái được âm tằm ba vạn ba; dệt thành lụa trắng nhuộm bằng máu…”
Tiếng hát mỗi lúc một xa, thiếu nữ chẳng mấy chốc đã khuất bóng sau rặng dâu, chỉ còn dải lụa trắng đong đưa dưới tán câu dâu cổ trong ánh tà dương tàn lụi.
Trình Hàn Lân từ dưới đất bò dậy, phủi bụi trên áo quan, liếc nhìn cổng thôn, nuốt khan một ngụm nước bọt: “Bài hát ấy… nghe chẳng lành gì cả…”
Hải Triều thở dài: “Đây là bí cảnh, không lành mới là bình thường, lành mới đáng sợ. Đi thôi.”
Bốn người tạm thời gác lại hình bóng thiếu nữ quái dị kia, tiếp tục đi sâu vào thôn.
Đi được mười mấy bước, chợt có một người đi nhanh về phía họ, vừa đi vừa gọi: “Chư vị khách quý từ đâu đến? Phải chăng lạc đường rồi?” Giọng thanh trong, hóa ra là một thiếu nữ.
Đi đến gần, mấy người đều sửng sốt.
Gương mặt kia rõ ràng chính là thiếu nữ điên điên dại dại ban nãy, nhưng cô nương trước mắt lại mỉm cười hiền hòa, ánh mắt lanh lợi, chẳng có chút gì là điên dại.
Ngay sau đó họ nhận ra, thiếu nữ này đi giày vải chỉnh tề, y phục khác hẳn, rõ ràng là người khác.
Trình Hàn Lân nói: “Chúng ta phụng mệnh triều đình, đến Thôn Kén Nữ để thu nhận cống phẩm.”
Thiếu nữ trợn tròn mắt đầy kinh ngạc: “Thật sao? Đã rất nhiều năm không ai tới đây nữa. Các vị làm sao tìm được thôn này vậy? Khó lắm phải không?”
“Quả là không dễ.” Lương Dạ đáp, “Nhiều năm là bao nhiêu năm?”
Thiếu nữ cười cười, hai má hơi ửng hồng: “Từ khi ta sinh ra tới nay, trong thôn chỉ từng có một người ngoài đến… Nghe các lão nhân trong thôn nói, sứ thần triều đình đã trăm năm không ghé qua.”
Hải Triều nói: “Lúc nãy bọn ta có thấy một tiểu cô nương, trông rất giống cô nương…”
Thiếu nữ thoáng lộ vẻ lo lắng: “Nó không lỗ mãng với các vị chứ?”
“Không đâu.” Hải Triều đáp, “Tiểu cô nương ấy còn hát cho bọn ta nghe nữa, nghe cũng… thú vị lắm.”
Trên mặt thiếu nữ thoáng qua vẻ xấu hổ: “Đó là biểu muội muội nhà ta, tên là A Miên. Từ nhỏ đầu óc đã không được tỉnh táo, bài hát quái dị kia… cũng chẳng rõ học từ đâu. A nương ta dạy dỗ mãi mà chẳng được… Mong chư vị chớ để tâm.”
Hải Triều gật đầu: “Cô nương tên gì?”
“Ta họ Hạ, tên Lăng, chữ Lăng trong lăng quyến, các vị cứ gọi ta A Lăng là được.” Thiếu nữ nói, “Các vị đến thật khéo, ngày mai đúng lúc là lễ tế Thần Tằm.”
Nàng ngừng lại một chút: “Lúc vào thôn, các vị có bái qua Thần Tằm ở cổng làng chưa?”
Trình Hàn Lân: “Có phải là tượng Mã Đầu Nương dưới gốc dâu lớn ở cổng làng?”
Hạ Lăng gật đầu.
“Chưa kịp bái.” Trình Hàn Lân nói.
Nụ cười trên mặt Hạ Lăng lập tức biến mất, vẻ mặt nghiêm lại: “Thế thì không được rồi, phải mau chóng đưa các vị đến bái lạy. Trong thôn có quy củ, người ngoài vào thôn nhất định phải bẩm báo trước với Thần Tằm Nương Nương.”
“Không thì sao?” Hải Triều hỏi.
“Không thì sẽ rước họa cho cả thôn đấy!” Thiếu nữ vẻ mặt nghiêm túc, hiển nhiên là rất tin tưởng điều đó, “Mau theo ta đi! May mà dân làng đang bận chuẩn bị lễ tế, chưa ai nhìn thấy các vị.”
Nàng hấp tấp chạy về hướng cổng làng, bốn người đành theo nàng quay lại gốc dâu cổ.
Hạ Lăng quỳ xuống trước pho tượng quái dị kia, thành kính dập đầu ba cái, miệng lầm rầm khấn vái, sau đó đứng dậy nói với bốn người: “Xin các vị khách theo thứ tự mà quỳ bái.”
Giọng nói vừa dứt, lại nghe thấy tiếng “phịch” vang lên dữ dội, một vật thể từ đỉnh cây rơi thẳng xuống, đập ngay trước pho tượng thần.
Hồng trắng văng tung tóe.
Còn chưa nhìn rõ đó là thứ gì, trong lòng mấy người đã có dự cảm chẳng lành.
Đó là một người.
***