Mộng hồi Tây Châu – Chương 22

Chương 22: Tòa nhà ăn thịt người (18)

***

Khi trở lại Tô phủ, mây đỏ đầy trời như lửa, nhuộm cả tòa cổ trạch thành một màu huyết sắc. Bốn người xuống xe ngựa ở tiền viện.

Hải Triều quay đầu nhìn lại, thấy Trình Hàn Lân mắt mờ mịt, bước chân lảo đảo, liền bước lên vỗ vai hắn: “Trình Hàn Lân, huynh làm sao vậy?”

Cái vỗ này làm hắn giật mình thót tim, liên tiếp lùi lại: “Vọng… vọng tiểu nương tử… tại hạ không sao cả…”

Hải Triều nhướng mày: “Không sao mà trông cứ như gặp ma vậy? Nét mặt huynh chẳng tốt chút nào, đã xảy ra chuyện gì?” Nàng vừa nói vừa tiến lại gần quan sát kỹ hơn.

Trình Hàn Lân lại liên tiếp lùi bước: “Đa tạ tiểu nương tử quan tâm, tại hạ thật sự không việc gì, chỉ là ngồi xe bị xóc, có chút chóng mặt hoa mắt thôi…”

Hải Triều cũng chẳng lạ gì bộ dạng thần thần bí bí của hắn, chỉ lầm bầm một câu “kỳ quặc thật”, rồi không bận tâm thêm nữa.

Trình Hàn Lân thở hắt ra một hơi dài, len lén lau mồ hôi trán.

Lương Dạ như không hề để ý đến chuyện đó, sai Lý Cát đi bẩm báo với chủ nhân, rồi hỏi tên mã đồng đang dắt ngựa bước tới: “Hôm nay trong phủ vẫn yên ổn chứ?”

Mã đồng đảo mắt nhìn quanh, vẻ mặt như có điều khó nói. Trình Hàn Lân rất thức thời, lôi ra một nắm tiền đồng trong túi đưa cho hắn: “Mua rượu uống đi.”

Mã đồng giấu tiền vào tay áo, lại nhìn quanh lần nữa, rồi che miệng nói nhỏ: “Chư vị tiên sư đừng nói là nô nói nhé… buổi chiều có mấy vị quan sai tới, lục soát phủ trong ngoài một lượt, hình như là đang tìm Tần nữ y…”

Hắn hạ thấp giọng hơn nữa: “Trong phủ đồn rùm cả lên, nói nữ y ấy cũng như Lý quản sự, bị căn nhà quái quỷ này nuốt mất rồi!”

Lời còn chưa dứt, sau ót hắn đã bị một bàn tay to bè vỗ đánh “bốp” một cái: “Thằng nhãi ranh! Không làm việc đàng hoàng, còn đứng đây huyên thuyên cái gì!”

Người đến là một hán tử trung niên vạm vỡ, mặc áo ngắn nâu xám lẫn lộn, người nồng nặc mùi phân ngựa và rơm khô, rõ ràng là phu ngựa trong phủ.

Mã đồng cười khì khì, rụt cổ, ôm đầu mắng lại: “Ta đang nói chuyện với tiên sư đây, lão già chết tiệt, nói lắm cái gì!”

Phu ngựa cười đá hắn một phát, nhổ một bãi nước miếng: “Phía sau dọn cơm rồi, mau ra ăn đi, ăn xong mang phần thừa đem cho Cát Thương Đầu.”

Mã đồng bĩu môi: “Sao lại bắt ta đi nữa, lão điên ấy ghê lắm, ổ rơm của lão toàn mùi phân, ta chẳng thích vào.”

Phu ngựa sa sầm mặt: “Ngươi đi hay không? Cẩn thận cái mông của ngươi đấy!”

Mã đồng lầm bầm oán trách, bị phu ngựa đá cho một cước vào mông, không tình nguyện mà lết đi.

Phu ngựa quay sang đám người Hải Triều nói: “Chư vị tiên sư đừng nghe thằng ranh đó nói bậy. Nữ y kia tám phần là bị mấy chuyện kỳ quái trong nhà này dọa sợ, lén trốn mất thôi. Tháng nào cũng có người bỏ trốn, mấy hôm trước vừa phát lương tháng xong, giờ là lúc nhiều người trốn nhất.”

Lão cười thật thà: “Nếu ta không phải đồ ngốc, chẳng có chỗ nào để đi, thì ta cũng đã chạy rồi.”

Lương Dạ hỏi: “Người vừa nói đến, có phải là lão mã phu gặp chuyện kia không?”

Phu ngựa gật đầu: “Phát điên rồi, không làm việc được nữa. Ban đầu tính đuổi đi, nhưng phu nhân nhân hậu, bảo cứ giữ lại, cho ăn cơm thừa là được.”

“Ông ấy ở đâu?” Lương Dạ hỏi.

“Lúc trước ở ngay chuồng ngựa, trong kho rơm. Nhưng lão điên không còn biết người biết ta, tiện đâu giải đấy, mùi quá người khác không chịu được, làm bẩn cả rơm, ngựa cũng không ăn. Bất đắc dĩ mới dựng cho lão một cái chòi nhỏ sau vườn, gần chuồng trâu, ở tạm đó.”

Hải Triều nghe mà khó chịu: “Ông ấy không có người thân sao?”

Phu ngựa thở dài: “Nghe nói từng có thê tử, sinh được một nữ nhi, sau này đều mất cả, chỉ còn lại mỗi ông ta. Đã thế lại hóa ra thế này.”

“Ông ấy từng là lính, rất giỏi chăm ngựa, vốn đang sống yên ổn, lại đi đánh cược với đám miệng lưỡi độc địa kia làm gì chứ? Lớn tuổi rồi còn ham đấu đá! Ôi… chẳng phải người ta vẫn nói: dây thừng mòn lại đứt chỗ mỏng đó sao!”

Lão lắc đầu lẩm bẩm: “Toàn là số phận, là số cả…” rồi dắt ngựa bỏ đi.

Lục Uyển Anh đỏ hoe mắt: “Bên cạnh chuồng trâu mà cũng là chỗ người ở sao…”

Hải Triều vốn xuất thân bần hàn, trong lòng chua xót, lắc đầu nói: “Ra ngoài là chết đói, còn có nơi che thân, có cơm thừa ăn, đã là may mắn rồi.”

Mấy người lặng lẽ trở về khách viện, chẳng bao lâu có tiểu đồng mang cơm chiều tới.

Lục Uyển Anh cầm đũa tre một lúc lâu, cuối cùng lấy hết dũng khí nói với tiểu đồng: “Ta không có khẩu vị, phần cơm này, phiền ngươi mang tới cho lão mã phu đã mất trí kia.”

Tiểu đồng kinh ngạc trừng to mắt, như thể không hiểu nổi. Lục Uyển Anh phải nói lại lần nữa, rồi lấy ra mấy đồng tiền thưởng cho cậu, lúc này cậu mới mừng rỡ, đem cơm chưa đụng đũa xếp vào hộp thức ăn, miệng không ngớt ca tụng Lục cô nương có tấm lòng nhân hậu.

Lục Uyển Anh bị khen đến mức càng nghe càng xấu hổ, càng nghe càng xót xa, suýt nữa bật khóc. Lúc ấy tiểu đồng mới xách hộp thức ăn đi khỏi.

Lục Uyển Anh thở hắt ra một hơi thật khẽ.

Hải Triều bảo mình đi rửa tay, rồi đứng dậy đuổi theo, gọi tiểu đồng lại, mở hộp cơm ra, trộn hết đồ ăn với nhau, rồi bốc một nhúm đất trong vườn hoa cho vào, trộn đều. Thấy tiểu đồng trợn mắt há mồm, nàng chỉ nói: “Đi đi.”

Khi trở lại đại sảnh, Lục Uyển Anh hỏi: “Sao đi lâu vậy?”

Hải Triều chia phần cơm của mình, gắp vài món cho Lục Uyển Anh. 

Lục Uyển Anh từ chối: “Ta không có khẩu vị.”

Hải Triều kiên quyết đẩy tới: “Sư tỷ ăn chút ít cũng được.”

Mọi người đều không mấy ngon miệng, chỉ ăn vài đũa cho qua rồi buông đũa bạc. 

Vừa mới thay trà, đã có nô bộc đến báo: “Lang quân nói phòng của Lý quản sự đã thu dọn sạch sẽ, mọi thứ chuẩn bị xong theo lời tiên sư dặn, chỉ chờ tiên sư dùng xong cơm, đến bố trí pháp đàn làm phép.”

Lương Dạ đặt chén trà xuống, khẽ gật đầu: “Làm phiền ngươi truyền lời với lang quân, bảo tất cả người trong phủ ra đứng chờ ngoài viện.”

Nô bộc kinh ngạc: “Tất cả mọi người ạ?” 

Lương Dạ: “Phải. Trên dưới toàn phủ.”

Nô bộc khó xử: “Nhưng… phu nhân đang khó ở, giờ này e là còn đang nghỉ trong phòng, nô sợ không tiện bẩm với lang quân…”

Lương Dạ vẫn ôn hòa, nhưng ánh mắt đã lạnh hơn vài phần: “Đợi đủ người rồi, hẵng đến gọi chúng ta.”

Nô bộc do dự một lát, cuối cùng không dám nói thêm lời nào, lui xuống truyền lệnh.

Hai khắc sau, trời đã tối hẳn. 

Trong tiểu viện của Lý quản sự đèn đuốc sáng trưng, người đông nghịt, ồn ào không dứt.

Vừa bước vào sân, họ liền trông thấy phu thê họ Tô dưới hành lang. Tô phu nhân khoác áo lông cáo trắng, ngồi trên một chiếc ghế nhỏ có tựa, nghiêng người dựa vào tì nữ tên Hoán Nguyệt, càng lộ vẻ yêu kiều yếu ớt như đóa tường vi trong gió. Chiếc cổ trắng ngần mảnh khảnh tựa cọng hoa, chỉ cần chạm nhẹ là sẽ gãy.

Tô Đình Viễn đứng cách đó mấy bước, sắc mặt trầm tĩnh, song lông mày hơi nhíu lại, lộ ra chút vẻ sốt ruột. Thấy bọn họ tới, y lập tức bước xuống bậc thềm, khom người hành lễ, nói với Lương Dạ: “Không biết tiên sư triệu tập chúng ta đến đây là có ý gì? Nội tử thể nhược, e là không gắng nổi, chẳng hay có thể cho nàng ấy vào phòng nghỉ trước không?”

Lời nói tuy mềm mỏng, nhưng trong giọng không khỏi mang theo vài phần bất mãn.

Lương Dạ đáp: “Xuân Thu có viết: ‘Họa tai do người mà ra. Người trái lẽ thì trời trách. Người không có tội, họa chẳng tự sinh.’ Yêu quái quỷ mị ắt chẳng vô duyên vô cớ xuất hiện, tất sẽ cảm ứng với người trong phủ. Chỉ là chưa rõ là vì ai mà tới, nên cần triệu toàn bộ mọi người trong Tô phủi đây mới có thể biết được.”

Trình Hàn Lân dịu giọng nói: “Tô cư sĩ yên tâm, pháp môn của bản môn về trừ tà tra tội khác với các phái khác, chỉ cần một khắc là xong.”

Trong mắt Tô Đình Viễn vẫn còn vướng bận.

Lương Dạ quay sang Lục Uyển Anh: “Lục sư muội, muội đi cùng phu nhân vào phòng nghỉ đi.”

Tô Đình Viễn thoáng hoảng hốt, vội nói: “Việc này… liệu có làm trở ngại pháp sự không? Hay là cứ…”

“Không ngại. Ở trong phòng cũng như nhau.” Lương Dạ nhàn nhạt đáp.

Tô Đình Viễn lúc này mới mỉm cười nhã nhặn với Lục Uyển Anh: “Vậy phiền tiên sư.”

Lục Uyển Anh khẽ gật đầu, cùng tì nữ Hoán Nguyệt dìu phu nhân đi về phía tây sương phòng.

Tô Đình Viễn dõi mắt nhìn theo bóng phu nhân khuất vào cửa mới thu hồi ánh nhìn: “Phòng đã bố trí theo đúng lời dặn của tiên sư, xin tiên sư sớm bắt đầu.”

Lương Dạ liếc nhìn sân viện đang hỗn loạn, đi đến trước lan can, nói với đám người: “Khi hành pháp, xin chư vị giữ yên lặng. Nếu vì ồn ào mà dẫn yêu tà tới, e rằng khó giữ được tính mạng.”

Giọng hắn không lớn, cũng không nghiêm khắc, nhưng bản thân lại mang khí chất nghiêm nghị uy nghi khiến người không dám khinh nhờn.

“Tiểu đạo trưởng kia trông tuổi chẳng lớn, mà khí thế thật dọa người…”

“Phải đấy, bị hắn liếc một cái, không hiểu sao sau lưng lạnh cả lên…”

Chẳng mấy chốc, đám đông náo nhiệt đã hoàn toàn yên lặng.

Lương Dạ gật nhẹ đầu với Trình Hàn Lân. 

Trình Hàn Lân gượng cười còn khó coi hơn khóc, quay sang Hải Triều nói: “Nhờ tiểu sư muội hộ pháp cho ta.”

Hải Triều đáp “Được”, rồi cùng hắn đi vào gian phòng xảy ra chuyện.

Cả hai trông có vẻ bình thản, nhưng thực ra lòng bàn tay đều đẫm mồ hôi. Kế hoạch đã bàn bạc kỹ tuy trông có vẻ chu toàn, nhưng nàng vốn không giỏi lừa gạt, chỉ sợ xảy ra chút sơ suất, để kẻ như Tô Đình Viễn nhìn thấu.

Tô Đình Viễn nghi hoặc nhìn sang Lương Dạ: “Không phải Lương tiên sư sẽ chủ trì pháp sự sao?”

Lương Dạ điềm nhiên đáp: “Mỗi người có chuyên môn riêng. Về phù pháp trừ tà, trong đồng môn không ai vượt được Trình sư huynh.”

Tô Đình Viễn mỉm cười hỏi: “Vậy không rõ Lương tiên sư chuyên tu pháp môn nào?”

Lương Dạ: “Khám đạo trời đất, quan sát vận hành nhật nguyệt, phân biệt cát hung âm dương.”

Tô Đình Viễn ra chiều khâm phục: “Không ngờ tiên sư tuổi còn trẻ, mà đạo hạnh đã cao như thế.”

Lương Dạ điềm đạm đáp: “Ngài quá khen. Mỗi người sinh tính khác nhau, đạo học sở trường cũng chẳng giống nhau, không có phân cao thấp.”

Tô Đình Viễn nói: “Tôn sư của quý phái hẳn là người tinh thông đủ pháp, bao gồm bách gia sở học, nhất định là bậc cao nhân thế gian khó gặp, chỉ tiếc duyên phận mỏng manh, không thể có dịp gặp mặt.”

Lương Dạ: “Gia sư tuy các loại pháp môn đều học qua, nhưng sở trường vẫn là y đạo kỳ hoàng.”

Nói đến đây, hắn dừng lại một chút, ánh mắt thoáng liếc về phía tây sương phòng như có như không: “Y thuật và thuật luyện đan của Lục sư muội chính là do gia sư đích thân truyền thụ.”

Tô Đình Viễn chớp mắt một cái: “Lục tiên sư dịu dàng nhã nhặn, dáng vẻ tựa tiểu thư thế gia, không ngờ cũng là người giấu tài, mang trong mình tuyệt học.”

“Không dám nhận hai chữ ‘tuyệt học’.” Lương Dạ nói với hàm ý sâu xa, “Chỉ là đối với những bệnh thường gặp thì còn có thể ứng phó.”

Tô Đình Viễn cong môi cười nhạt, không nói gì thêm, ra vẻ như đang chăm chú quan sát pháp sự, nhưng ánh mắt nơi đuôi mày lại khẽ liếc về phía tây sương phòng.

Trong tây sương phòng, Lục Uyển Anh và tì nữ Hoán Nguyệt đỡ phu nhân ngồi xuống bên cạnh giường. Chỉ vài bước ngắn ngủi, nàng ta đã thở dốc liên hồi, mồ hôi lạnh túa ướt hai bên tóc mai.

Hoán Nguyệt lấy ra chiếc khăn tay thêu hoa sen nhẹ nhàng chấm mồ hôi cho nàng: “Phu nhân nằm nghỉ một lát nhé?”

Phu nhân khoát tay: “Không cần, ta ngồi một lát là được rồi.”

Nàng khẽ nghiêng mình hành lễ với Lục Uyển Anh, chậm rãi nói: “Linh đan đêm qua, là tiên sư ban cho sao?”

Lục Uyển Anh đáp: “Không dám nhận, chỉ là đan dược thông thường, có tác dụng an thần phần nào.”

Phu nhân khẽ nhướng mày, cười mỉm: “Tiên sư khiêm tốn rồi. Không ngờ tiên sư tuổi trẻ tài cao, dung mạo lại như tiên tử giáng trần, lại còn tinh thông y đạo. Bảo sao đêm qua lang quân nhà ta vừa gặp đã khen ngợi không dứt miệng, nói tiên sư không giống người trong đạo môn, mà càng giống như khuê tú thế gia.”

Lục Uyển Anh xuất thân đặc biệt, lòng dạ tinh tế, nghe ra lời nàng ta có ẩn ý, như dao giấu trong lụa mềm, mà lại chẳng biết nên đối đáp thế nào, đành nói: “Phu nhân quá lời.”

“Chẳng hay tiên sư năm nay bao nhiêu tuổi? Tu hành được bao lâu rồi?” Phu nhân lại hỏi.

“Ta nhập môn từ năm sáu bảy tuổi, đến nay đã mười ba xuân thu.”

“Tu hành chốn sơn môn hẳn là thanh vắng khổ hạnh, thật hiếm có người trẻ như tiên sư, lại có thể yên lòng tu tập, chịu được cô tịch.”

Phu nhân vừa nói, vừa khẽ mân mê tua ngọc trên chiếc ngọc bội hình hoa sen bên hông, mỉm cười đầy hàm ý: “Thời thế này, nữ đạo sĩ trẻ mà chuyên tâm đạo hạnh như vậy, đúng là chẳng còn mấy ai.”

Lục Uyển Anh nghe nàng ta câu nào cũng đầy hàm ý, mà không sao nắm được ý đồ thực sự, chỉ có thể mỉm cười nhẹ.

Phu nhân lại nói: “Tiên sư có nghe nói, nữ y chăm sóc ta đột nhiên mất tích không?”

Lục Uyển Anh không rõ nàng đang giở trò gì, cẩn trọng gật đầu: “Có nghe qua một chút.”

“Ta vốn thể yếu nhiều bệnh, lang quân vì vậy mới mời y nữ kia đến chăm sóc. Không ngờ nàng ta không nói không rằng mà bỏ đi, khiến người ta trở tay không kịp. Trùng hợp là hôm nay bệnh lại phát, mà y quán trong thành thì long xà hỗn tạp, lương y khó gặp. Trong phủ lại bất an, người nghe danh liền sợ, huống hồ ta vốn không ưa gặp người lạ, mấy tên đại phu kia, càng thô tục không thể gần.”

Nhiệm vụ của Lục Uyển Anh là chẩn mạch cho phu nhân, nhân đó quan sát tay nàng ta. Đang không biết mở lời ra sao, lại đúng lúc đối phương chủ động nhắc đến, nàng liền nói: “Nếu phu nhân không ngại, ta có thể bắt mạch cho người.”

Phu nhân lập tức đưa tay trái ra: “Vậy làm phiền tiên sư rồi.”

Lục Uyển Anh hít sâu một hơi, cẩn thận đặt ngón tay lên cổ tay trắng ngần của nàng, lông mày lập tức giật nhẹ. 

Phu nhân nhìn nàng: “Thế nào? Thân thể ta e là không còn cứu được nữa phải không?”

Trán Lục Uyển Anh rịn một lớp mồ hôi mỏng, bàn tay cũng khẽ run, cố trấn định lại tâm thần mới nói: “Mạch phu nhân hư phù, ấn vào không thấy lực, là chứng huyết hư ở tâm và can. Chỉ cần dùng đúng phương thuốc, điều dưỡng lâu ngày, chưa hẳn không thể hồi phục.”

Phu nhân cười buồn: “Tiên sư là đang an ủi ta thôi. Thân thể ta thế nào, chính ta rõ nhất. Nửa năm nay không biết đã uống bao nhiêu thang thuốc, đồ bổ, lúc tốt lúc xấu, chẳng thấy khởi sắc gì.”

Lục Uyển Anh lại bắt thêm mạch tay phải, hỏi: “Không rõ phương thuốc trước đây phu nhân dùng còn giữ lại không?”

Phu nhân gật đầu với Hoán Nguyệt, nàng ta lấy từ thắt lưng ra một phương thuốc gấp lại: “Đây là đơn thuốc gần đây phu nhân dùng.”

Lục Uyển Anh cẩn thận xem kỹ rồi nói: “Phương này trị chứng của phu nhân cũng hợp lý, chỉ cần điều chỉnh đôi chút là được.”

Phu nhân bảo Hoán Nguyệt mang bút mực giấy nghiên tới. 

Lục Uyển Anh dựa vào bài thuốc an thần mình thường dùng, thêm bớt dược liệu một chút, nhanh chóng viết ra một phương thuốc không công không tội, giao cho Hoán Nguyệt: “Cứ theo phương này mà bốc thuốc là được.”

Lại hỏi: “Bình thường là ngươi sắc thuốc cho phu nhân sao?”

Hoán Nguyệt đang định đón lấy phương thuốc, nghe vậy khẽ run tay, tờ giấy rơi xuống đất. Nàng ta vội cúi xuống, luống cuống nhặt lại, miệng không ngừng nhận lỗi.

Phu nhân trách nhẹ: “Sao dạo này càng lúc càng vụng về thế, chẳng lẽ ngươi cũng trúng tà rồi?”

Hoán Nguyệt tay chân luống cuống, mặt mày xám ngoét, chẳng khác nào tượng đất trong miếu đã tróc sơn…

Sắc mặt của Hoán Nguyệt lúc này tái nhợt như tượng đất trong miếu, khiến người nhìn không khỏi giật mình.

Phu nhân bật cười: “Xem dọa con nô tỳ này đến mức nào rồi.”

Nàng lại không nhịn được dặn thêm một câu: “Thang thuốc này, lửa lò và thời khắc không thể sai lệch chút nào, nhất định phải giao cho người tin cẩn trông chừng, tuyệt đối không được để người khác làm thay.”

Phu nhân quay sang nói với Lục Uyển Anh: “Tiên sư chớ cười, nô tỳ này nhát gan lại vụng về, đêm qua lại đúng ca trực của nó, gặp chuyện như thế, sợ tới hồn vía lên mây.”

Lục Uyển Anh nhìn tì nữ co rúm như chim sẻ nhỏ nép gió, bỗng dâng lên niềm xót thương: “Ta cũng bắt mạch cho ngươi một chút có được không?”

Phu nhân mỉm cười: “Nếu tiên sư có lòng…”

Không ngờ tì nữ kia lại liên tục lắc đầu: “Nô tỳ không sao… không dám phiền tiên sư.”

Lục Uyển Anh: “Nhưng sắc mặt ngươi thật sự rất kém…”

Hoán Nguyệt vội nói: “Không đáng ngại, nô tỳ thân phận hạ tiện, sức vóc như trâu như bò, về ngủ một giấc là ổn. Mong tiên sư chuyên tâm chẩn trị cho phu nhân. Phu nhân đã chịu quá nhiều khổ rồi… chỉ cần người sớm khỏi bệnh, nô tỳ có chết cũng cam tâm.”

Lục Uyển Anh hoàn toàn không ngờ nàng ta sẽ nói ra lời như vậy. Nhưng khi thấy trong mắt Hoán Nguyệt ánh lên vẻ cương quyết, viền mắt hoe đỏ, trong lòng nàng bỗng dâng lên một cảm giác bi thương khó tả.

Phu nhân vỗ nhẹ mu bàn tay nàng ta, dịu dàng nói: “Đồ ngốc.”

Rồi quay đầu nhìn Lục Uyển Anh, cười nói: “Con bé này tuy vụng về chất phác, nhưng được cái trung thành không hai. Dù người khác có lanh lợi thế nào, cũng không bằng nó hiểu ý ta.”

Nàng lại quay sang Hoán Nguyệt: “Ngươi cũng biết ta một ngày không rời được ngươi, đừng nói mấy lời xui xẻo ấy.”

Hoán Nguyệt cúi đầu lí nhí: “Nô tỳ biết sai rồi…”

Phu nhân khẽ khàng nhìn sang Lục Uyển Anh, trong ánh mắt lại hiện ra nét dò xét như ban nãy: “Đa tạ tiên sư đã ban đơn thuốc. Hôm nay y nữ đột ngột bỏ đi, lang quân từng nói với thiếp rằng: tiên sư y thuật cao minh, phong tư thanh nhã siêu trần, nếu có thể lưu lại phủ vài hôm, giải quyết nguy cấp trước mắt, phu quân nhất định sẽ cảm kích muôn phần, không thiếu hậu tạ.”

Lục Uyển Anh hơi chau mày: “Đa tạ phu nhân ưu ái. Chỉ là lần này ta xuống núi là phụng lệnh sư môn, sau khi yêu tà bị trừng phạt, ta phải lập tức về núi hầu hạ gia sư, e rằng không thể tuân theo ý phu nhân.”

“Thật đáng tiếc.” Phu nhân tuy nói thế, nhưng trên mặt lại chẳng có mấy vẻ thất vọng, thậm chí còn nhẹ nhõm hơn hẳn. Nàng lại kéo Lục Uyển Anh nói mấy câu chuyện nhà, nụ cười cũng chân thật hơn nhiều.

Lúc này Lục Uyển Anh mới đột nhiên hiểum, hóa ra cảm giác địch ý vờn quanh nãy giờ… không hề là ảo giác.

Thì ra từ đầu phu nhân vẫn luôn ngầm thăm dò nàng. Có lẽ trong lòng nàng ta đã gắn nàng với loại nữ đạo sĩ mà kế mẫu thường hay nhắc đến(*). Lại thêm những lời khen ngợi không ngớt của Tô Đình Viễn, khiến nàng ta nảy sinh đề phòng. Mãi đến khi biết nàng không có ý định ở lại trong phủ làm y nữ, phu nhân mới yên lòng.

(*) Ám chỉ kiểu nữ đạo sĩ bị khinh miệt, có quan hệ mờ ám với quyền quý, ngụ ý “bề ngoài tu hành, bên trong tư tình.”

Nhận ra được hàm ý ẩn giấu kia, mặt Lục Uyển Anh lập tức nóng bừng lên, vừa thẹn vừa giận. Từ nhỏ đến lớn, nàng không dám nói mình xuất chúng, nhưng chí ít cũng là người quy củ giữ lễ, chưa từng chịu phải uất ức nhục nhã như vậy.

Nhưng nhớ đến lời căn dặn của đồng bạn, không thể nhiều lời, đành cắn chặt môi, lặng lẽ siết chặt nắm tay, cố gắng nuốt hết lệ vào trong.

Đúng lúc ấy, cây trong sân ngoài cửa sổ bỗng xào xạc rung động.

“Sao lại có gió nổi lên vậy?” Phu nhân hiếu kỳ nhìn ra ngoài.

“Chắc là sư huynh đang hành pháp rồi.” Lục Uyển Anh đáp. Khóe mắt nàng thoáng liếc thấy Hoán Nguyệt đang siết chặt dây lưng, sắc mặt tái nhợt, khớp ngón tay nắm chặt đến trắng bệch.

Trong phòng của Lý quản sự, tối om không đèn, tất cả cửa sổ đều mở, nhưng chỉ có một khung cửa trước được treo rèm lụa trắng, còn lại đều phủ rèm đen dày nặng, đây là cách bố trí do Lương Dạ đích thân chỉ đạo cho gia nhân nhà họ Tô.

Lời của Lục Uyển Anh vừa dứt, khung cửa treo rèm trắng liền phát sáng.

Mọi người đều hiếu kỳ, kiễng chân nhìn vào lớp lụa trắng treo trước cửa sổ. Thấy bóng dáng một thiếu nữ cầm nến đi ngang qua cửa sổ, từ đông sang tây, lại từ nam sang bắc. Ánh nến lần lượt sáng lên, lửa từ các khe kẽ rọi xuyên qua, nhuộm màn đen nặng nề thành màu đỏ sậm u ám, giống như máu đã khô cứng lại.

Gần như cùng lúc đó, trong phòng vang lên giọng đạo sĩ trẻ tuổi, trong trẻo rõ ràng: “Tả Long hữu Hổ trấn tứ phương, Chu Tước Huyền Vũ thuận âm dương, bát tử cửu tôn…”

Tấm lụa trắng trước cửa sổ khẽ lay động trong gió đêm. Trong phòng đặt một chiếc bàn gương, trên đó là một tấm gương đồng cũ kỹ ánh đồng vàng mờ, đối diện đúng cửa sổ. Lúc này trong gương không phản chiếu bóng người nào, chỉ thấy bức tường trắng phía đối diện.

Chốc lát sau, tiểu đạo cô vén rèm bước ra, ôm kiếm gỗ đào, đứng nghiêm trước hành lang, mặt nghiêm nghị quát lớn ra sân: “Tất cả im lặng! Pháp sự bắt đầu rồi, ai mở miệng, bị quỷ quái nhìn trúng, chúng ta cũng không kịp cứu đâu đấy!”

Dù có người vẫn hoài nghi trong lòng, nhưng cũng không dám lấy tính mạng mình ra đùa, ai nấy đều nín thở ngưng thần, mắt dán chặt vào tấm lụa trắng trước cửa sổ.

Trình đạo sĩ bước đi theo bộ pháp Vũ bộ, đi đến trước bàn gương, cắn ngón giữa cho chảy máu, ấn lên mặt gương đồng, nét bút như rồng bay phượng múa viết gì đó lên. Vừa viết, vừa lớn tiếng tụng chú: “Trừng trách! Quỷ hại dân, gây họa nhân gian. Nay ta vạch tội, quỷ không thể thoát! Chớ gieo hung họa!”

Chú ấy được tụng ba lần, sau đó hắn rút ra từ tay áo một tấm phù vàng chu sa, niệm: “Đức thắng bất tường, nghĩa trấn bất thiện. Nếu hại nhân mạng, tội phải chịu lôi trừng!”

Lời vừa dứt, màn đen trong phòng bỗng lay động không gió, phần phật vang lên, tiếng gió hú quanh xà nhà rầm rì như tiếng quỷ khóc âm u.

Đạo sĩ lại hô: “Nếu có oan khuất, mau hiện hình đến tỏ!”

Trong tiếng gió chẳng rõ từ khi nào đã hòa thêm tiếng nức nở khe khẽ, như sợi tơ mảnh vắt chặt qua tim mọi người, khiến ai nấy nghẹn thở, tim thắt lại tận cổ họng.

Tiểu đạo cô đang ôm kiếm đứng dưới hành lang bỗng hét to: “Gương!”

Mọi người giật mình nhìn về phía đó, thấy lụa trắng tung bay, ngọn nến trong gương đồng chập chờn điên cuồng. Trong những phù văn quái dị được vẽ bằng máu, từ từ hiện lên một gương mặt tái nhợt sưng phù, miệng hơi hé, hốc mắt trống rỗng, tựa như ba cái hang sâu hun hút.

Trong phòng, đạo sĩ trẻ kinh hãi thốt lên, phun một ngụm máu tươi, cả người ngã gục về phía trước, húc đổ bàn gương. Tấm gương đồng rơi xuống đất, vang lên một tiếng keng, vỡ tan làm đôi.

***

Chương tiếp theo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *