Mộng hồi Tây Châu – Chương 20

Chương 20: Tòa nhà ăn thịt người (16)

***

Căn phòng rất nhỏ, một chiếc giường sáu thước kê sát vào bên trong, ba mặt đều dựa sát tường. Thêm một chiếc bàn dài, một bàn trang điểm nhỏ, hai rương mây xếp chồng lên nhau, ấy là toàn bộ gia sản trong phòng.

Trước giường, màn vải xanh loang lổ vết máu lớn đỏ nâu đến giật mình, đã khô lại thành màu nâu xỉn.

Một nam một nữ, hai thi thể trần truồng, nữ tử chết ngửa trên giường, nam tử thì hai chân còn treo bên mép giường, nửa người trên bò sấp xuống đất, tay trái vươn ra phía trước, như thể đang muốn bò đến cửa.

Hai người hiển nhiên đã chết từ lâu, vũng máu dưới thân đã đông cứng, thi thể sưng tấy biến dạng, nước xác rỉ ra từ mũi miệng, ruồi nhặng vo ve vần vũ như mây đen tụ lại.

So ra, đống xương trắng sạch sẽ của quản sự Lý đã coi như là chết tử tế.

Ngay lúc Hải Triều sắp không chịu nổi, một chiếc khăn lụa trắng tinh được đưa đến trước mặt nàng.

“Bịt mũi miệng lại.” Lương Dạ nói, “Sẽ dễ chịu hơn chút.”

Hải Triều chần chừ một thoáng, nhưng cuối cùng cái mũi vẫn quan trọng hơn, đành nuốt giận nhận lấy, che nửa khuôn mặt, rồi buộc nút sau đầu.

Hương khí thanh đạm sạch sẽ của Lương Dạ lan khắp khoang mũi, phần nào giúp dạ dày nàng dễ chịu hơn.

“Cảm ơn.” Nàng lầm bầm miễn cưỡng một câu, rồi bước tới bên giường.

Căn phòng vốn nhỏ như tổ chim sẻ, lại chen thêm hai thi thể, máu và nước xác thấm đẫm chiếu rơm, chẳng còn chỗ mà đặt chân.

Hải Triều bước đến bên giường, thi thể trắng bệch trương phình nằm đó, như một đống thịt chết, bị tước hết mọi thứ từng thuộc về một con người.

Nàng chưa từng quen Ngô Mị Khanh, ấn tượng gom góp qua vài lời kể cũng chẳng mấy tốt đẹp, nhưng giờ phút này nhìn thấy nàng ấy chết lõa thể giữa phòng, trong lòng không khỏi cảm thấy xót xa. Nàng không chút do dự cởi chiếc áo khoác lụa đỏ thêu vàng, nhẹ nhàng phủ lên người nàng ấy.

Lương Dạ nhìn nàng, chỉ nói: “Nếu chịu không nổi thì ra ngoài đợi.”

Hải Triều lắc đầu: “Không sao.”

Có lẽ vì có “quan sai” đứng cạnh nên gan cũng to ra, tú bà dùng khăn thơm bịt mũi, rón rén bước chân đi vào, dè dặt né tránh vết máu trên chiếu: “Thế nào rồi?”

Lời còn chưa dứt, bà ta đã nhìn thấy thi thể nữ tử mắt mở trừng trừng trên giường, lập tức há hốc miệng, chẳng thốt nổi lời nào, hai chân mềm nhũn ngồi bệt xuống đất.

Hải Triều vội gọi Lộ Lạc đến đỡ bà ta ra ngoài.

Lương Dạ lấy thêm một chiếc khăn làm lớp đệm, cúi người xem xét kỹ thi thể hai người.

Ngô Mị Khanh từng là kỹ nữ danh tiếng ở Kiến Nghiệp, thuở trước hẳn là ngũ quan thanh tú, nhưng giờ sớm đã không còn nhận ra hình dạng. Dù không tính phần thi thể sưng phù và những mảng bầm đen, thì dáng người cũng đã béo phì, tóc bạc sớm lưa thưa, bên má trái sát hàm còn có một vết sẹo cũ, nhan sắc hủy hoại, cảnh đời chốn yên hoa dễ đoán ra.

Nam tử kia thì trẻ hơn nhiều, trông chừng chưa đến hai lăm, miễn cưỡng gọi là tuấn tú, nhưng tướng mạo có nét gian tà, khiến người nhìn khó ưa.

“Hai người đều chết do bị cắt cổ bằng vật sắc bén,” Lương Dạ cẩn trọng đặt lại đầu nam tử vào tư thế ban đầu, “Xem tình trạng thi thể thì ít nhất đã tử vong được mười lăm, mười sáu canh giờ. Kẻ ra tay hạ thủ dứt khoát, nếu không phải đã từng gây án nhiều lần thì chính là kẻ máu lạnh vô tình.”

Hải Triều tính toán: “Tức là chuyện xảy ra vào đêm hôm kia.”

Lương Dạ gật đầu, buông khăn trong tay, đi đến trước cửa sổ, mở cánh cửa ra. Miên Vân Các được dựng bên sông, bên dưới sông có vô số thuyền dạo và thuyền buôn, cánh buồm san sát, cột buồm như rừng.

Cánh cửa sổ này đủ rộng để một nam tử thân hình trung bình chui qua.

Lương Dạ vươn người nhìn ra, xem xét tường quanh cửa sổ.

Hải Triều hỏi: “Kẻ gây án đột nhập từ cửa sổ?”

Lương Dạ gật đầu: “Ổ khóa trên cửa sổ có lẽ đã hỏng từ lâu, ngoài tường có dấu vết trèo bám và buộc dây. Hung thủ hẳn là ban ngày nấp trên một chiếc thuyền nào đó, chờ đến đêm vắng thì trèo lên, đột nhập phòng, cắt cổ hai người đang say ngủ, rồi rời đi từ cửa sổ. Nam tử kia chưa chết ngay, cố bò khỏi giường định cầu cứu, nhưng chưa kịp bò đến cửa thì đã mất máu ngất đi, cuối cùng chết vì mất máu.”

Nói rồi, hắn quay sang Hải Triều: “Ai cũng có thể từ cửa sổ trèo vào giết người, cũng có thể lặng lẽ thoát ra, nơi này chẳng còn gì để tra nữa, ra ngoài thôi.”

Hai người bước ra khỏi phòng, thấy Lộ Lạc đang đỡ tú bà Vân Dung tiến lại. Cả hai mắt đều sưng đỏ, hiển nhiên đã khóc. Phấn trắng trên mặt Vân Dung bị nước mắt làm trôi thành hai vệt, dáng vẻ tiều tụy, như già đi mười tuổi.

“Hai vị quý khách… rốt cuộc là ai đã hại A Ngô vậy?” Vừa mở miệng, nước mắt bà ta lại trào ra.

Lương Dạ kể sơ lại nguyên nhân cái chết của hai người.

Vân Dung nhìn về căn phòng xảy ra án mạng, vừa khóc vừa lẩm bẩm: “Sớm đã khuyên ngươi bớt cái tính kia lại! Đừng có dây dưa với cái tên tiểu tặc ấy, giờ thì sao? Bị hắn hại đến mất mạng, còn liên lụy đến ta…”

Nói rồi bắt đầu hằn học kể tội tên nam tử chết trong phòng.

Hải Triều nghe vậy, dần hiểu ra: kẻ đó chính là một tên lưu manh chuyên lang thang trong thành, ham mê cờ bạc rượu chè, dựa vào khuôn mặt ưa nhìn để dụ dỗ những kỹ nữ tuổi xế chiều, đơn độc và yếu đuối, bòn rút từng đồng tích góp cuối cùng của họ, sau đó phủi tay bỏ đi.

Lương Dạ để mặc cho Vân Dung trút giận, đến khi bà ta nguôi ngoai mới hỏi: “Ngô Mị Khanh từng đắc tội với ai không?”

Vân Dung sững người, sau đó lập tức lắc đầu: “Không, không thể nào, hung thủ tuyệt đối không phải nhắm vào A Ngô. A Ngô lúc trẻ có từng phong quang, tính tình có hơi lớn, thỉnh thoảng cãi vã với mấy tỷ muội trong lâu hay hàng xóm xung quanh, nhưng toàn là chuyện lặt vặt, ai lại vì mấy chuyện lông gà vỏ tỏi ấy mà giết người chứ?”

“Khách làng chơi thì sao?” Hải Triều hỏi.

“Lại càng không có.” Tú bà nói, “A Ngô nay đã chẳng còn được như xưa, tính khí lại… mới đến chưa được bao lâu đã đắc tội bốn, năm vị khách, từ đó nô không để nàng tiếp khách nữa… nói thật với hai vị, nô giữ nàng lại, chẳng phải vì gì, chỉ vì từng là tỷ muội cùng chốn yên hoa năm xưa, không muốn thấy nàng cuối đời bơ vơ, nên cho nàng một chỗ dung thân mà thôi.”

Hải Triều hỏi: “Vậy còn tên quản sự nhà họ Tô thì sao? Không phải ông ta thường lui tới tìm nàng ấy à?”

Vân Dung liếc nhìn Lộ Lạc, vẻ mặt như trách nàng lắm lời: “Tên quản sự họ Lý ấy, quả thực cách ba bữa lại ghé qua, nhưng phần nhiều là ngồi một lát rồi về.”

Bà ta do dự, liếc Hải Triều một cái, rồi ghé tai nói nhỏ với Lương Dạ: “A Ngô chẳng coi trọng ông ta, chê ông ta là đồ nô tài từ trong xương, mệnh làm đầy tớ. Đến lầu hoa thì chẳng đụng đến ai, nhưng hễ say là quỳ khóc trước mặt nàng ấy.”

Hải Triều và Lương Dạ đưa mắt nhìn nhau.

Lương Dạ hỏi: “Gần đây Ngô Mị Khanh có gì bất thường không? Có từng nói gì khác lạ không?”

Vân Dung nhíu mày trầm ngâm một hồi, mới nói: “Chừng hai mươi ngày trước, có một buổi trưa nàng ấy đặc biệt vui vẻ, hiếm khi thưởng cho tiểu a hoàn mấy đồng bạc, còn đi mua ô mai mật đem về ăn với nô. Khi ăn còn nói những lời rất lạ: ‘Tỷ tỷ à, nửa đời sau của muội không phải lo ăn lo mặc nữa rồi. Quấy rầy tỷ thêm vài hôm, rồi sẽ đi cầm một căn nhà dọn ra ngoài ở.’”

Lương Dạ như suy nghĩ điều gì: “Trước hôm đó nàng ấy có gặp ai không? Hay có chuyện gì khác lạ?”

Vân Dung nói: “Nô nhớ lại thì cũng chẳng có gì rõ ràng. Ngày hôm trước đó có lão Lý đến, uống say rồi ngủ lại phòng A Ngô. Mấy chuyện như vậy cũng không phải chưa từng, trước kia A Ngô chẳng thèm để ý, sau mỗi lần đều đập bát đập chén, trút giận lên đầu tiểu a hoàn. Nhưng hôm ấy thì khác, nàng ấy vui vẻ lắm, có lẽ lão Lý hứa hẹn gì đó với nàng.”

Lộ Lạc chợt chen vào: “Đúng rồi, có một lần nô tình cờ nghe nàng ấy cãi nhau với hoa khôi Thính Vũ trong lầu… Hai người cãi nhau rất to, Thính Vũ mắng Ngô Mị Khanh đem tiền chôn vào trai bao, Ngô Mị Khanh liền mắng lại: ‘Chó chê mèo lắm lông! Có kỹ nữ còn tự mình lao đến muốn bao trai, mà người ta lại chẳng thèm ngó tới ba đồng tiền còm của ả! Tốt nhất là bán mình thêm trăm lần nữa mà tích chút hồi môn, đợi kẻ lao bệnh kia chết quách, may ra còn tới lượt mình.’”

“Thính Vũ tức quá liền chửi: ‘Ngươi nói ai hả?’ Ngô Mị Khanh cười gằn: ‘Tao nói cái tên Tô lang nhà mày định rước mày làm chính thất đấy! Dù gì cũng là kỹ nữ, ai hơn ai?’ Thế là hai người nhào vào đánh nhau.”

Lương Dạ trầm ngâm: “Còn chuyện gì khác không?”

Vân Dung và Lộ Lạc nghĩ một lúc rồi cùng lắc đầu: “Trong chốc lát không nhớ thêm ra được gì.”

Lương Dạ gật đầu, quay sang Hải Triều: “Đi thôi.”

Hải Triều hơi kinh ngạc, hạ giọng hỏi: “Đi luôn sao? Không điều tra hung thủ à?”

Lương Dạ đáp: “Ở lại cũng chẳng tra được gì thêm, việc còn lại để quan phủ xử lý.”

Hải Triều gật đầu, rút bạc từ túi tiền để thanh toán.

Chưa đợi Vân Dung mở lời, Lộ Lạc đã ngăn lại: “Gặp phải chuyện thế này, còn may được hai vị lang quân ra tay tương trợ, sao có thể thu bạc được?”

Rồi nàng nhìn áo Hải Triều thở dài: “Tiếc cho tiểu lang quân, một chiếc áo gấm thêu đẹp như vậy…”

Nàng nói đoạn, bỗng quỳ rạp xuống đất, dập đầu vái lạy.

Hải Triều hốt hoảng đỡ nàng dậy, nhưng nàng vẫn nhất quyết hành lễ: “Nô thay mặt Ngô Mị Khanh cảm tạ tiểu lang quân đã ban y phục, để nàng ấy có chút thể diện cuối cùng.”

Nàng hít hít mũi, khóe miệng giật giật, khẽ nói một câu gần như không nghe thấy: “Hạng người như bọn nô… còn thể diện gì nữa chứ? Nô nói như vậy có phải rất nực cười không?”

Nhưng không ai cười nổi.

Hải Triều đặt một nén bạc hình hoa sen lên lan can: “Quan phủ tới, còn phải lo liệu vài chuyện.”

Nói xong, nàng xoay người cùng Lương Dạ lặng lẽ rời khỏi tiểu viện.

Phía sau vang lên tiếng khóc thảm thiết của hai người kia, như một áng mây nặng ẩm, u uất phủ mãi trong lòng.

Ra khỏi Miên Vân Các, ánh dương mùa thu từ trên cao chiếu xuống, bóng hai người bị kéo dài ra sắc nét.

Hải Triều không khỏi lấy làm lạ, nàng có cảm giác như đã ở trong tòa lâu đó rất lâu, nhưng thật ra mới chỉ qua hơn một canh giờ.

Hai người sóng vai im lặng rời khỏi “Tiểu Bắc Lý”, đường phố đã dần đông đúc xe ngựa và người đi qua lại.

Hải Triều nhìn dòng người tấp nập trên phố phường, bỗng có cảm giác như vừa đi qua cõi âm mà trở về dương thế. Tiếng khóc ai oán vẫn văng vẳng trong tai, nhưng dường như đã nhạt đi nhiều.

Còn khoảng hai canh giờ nữa mới đến giờ hẹn gặp, Hải Triều hỏi: “Giờ làm gì tiếp?”

Lương Dạ: “Đi một chuyến đến hiệu may.”

Hải Triều lấy làm lạ: “Đến đó làm gì?”

“Mua thêm một bộ y phục, tránh bị nhiễm lạnh.”

Hải Triều nghĩ đến chiếc áo tay gấm đỏ thêu kim vừa cởi ra, trong lòng có hơi tiếc, nhưng vẫn giả vờ không để tâm: “Bộ đó dày quá, ta mặc còn thấy nóng. Với lại trông cũng quá đẹp, quá sang, ta mặc vào chẳng hợp cũng chẳng thoải mái, mất rồi lại hay. Đi thôi, chính sự quan trọng hơn.”

Lương Dạ nhìn nàng một lát, rồi mới gật đầu: “Chúng ta đi tìm tên Giả Tam.”

Theo lời Phong Lai và Lộ Lạc, Giả Tam chỉ cần trong túi có một văn tiền, là suốt đêm lăn lộn ở sòng bạc, ngủ tại ở nhà mẹ đẻ Chu Tứ Nương, có thể mấy ngày liền không thèm về nhà. Gần đến giữa trưa, tám chín phần là hắn vẫn đang ngủ như chết ở chỗ Chu Tứ Nương.

Hai người vừa hỏi vừa tìm, chẳng tốn mấy công đã tìm được chỗ.

Gõ cửa hỏi, quả nhiên Giả Tam đang ở đó.

Chốc lát sau, một nam nhân trung niên đầu bù tóc rối, bộ dạng lêu lổng, chân nam đá chân chiêu bước ra. Nhìn sơ qua chừng bốn, năm mươi tuổi, hai bên tóc mai đã hoa râm, mặt mày sưng phù, tứ chi tong teo mà bụng thì phình to, còn cố tình mặc giả dạng nho sinh, nhưng mũ sa đen đội lệch, áo trắng nhăn nheo như dưa muối, dường như từ ngày cắt may đến giờ chưa từng giặt qua, loang lổ vết dơ, bẩn đến mức chẳng phân biệt nổi màu sắc. Toàn thân nồng nặc mùi rượu chua lè khiến người ta không nhịn được phải lùi ra ba bước.

Lương Dạ nhíu mày: “Ngươi là Giả Tam Lang?”

Giả Tam đánh giá hai người, mặt mày tràn đầy nịnh hót: “Chính là tiểu nhân đây, chẳng hay hai vị quý khách có điều gì chỉ giáo?”

Lương Dạ vào thẳng vấn đề: “Nghe nói tòa biệt phủ ở phía nam thành nhà họ Tô là do ngươi đứng ra làm trung gian?”

Vừa nghe hai chữ “Tô gia”, trong mắt Giả Tam hiện lên vẻ cảnh giác: “Hai vị hỏi chuyện này để làm gì? Lẽ nào Tô công tử có gì muốn nhắn lại?”

Lương Dạ đáp: “Chúng ta không quen biết người Tô gia. Chỉ là đến từ ngoại châu, muốn tìm một nơi mua nhà định cư. Thấy biệt phủ Tô gia quy mô bề thế, rất ưng ý. Nghe nói là do ngươi làm trung gian nên tới hỏi thử xem, có biệt phủ nào tương tự đang được bán hay cầm cố, giá cả thế nào?”

Giả Tam nghe xong như trút được gánh nặng: “Hóa ra là vậy. Tiểu nhân đây, trong tay đầy đủ nhà đất tốt, chỉ cần hai vị quý nhân có ý muốn, thứ gì cũng tìm được. Hẻm Tĩnh An ở phía tây thành, nhà cũ của họ hàng Trương phủ quân, ba gian sân trong, có cả hoa viên, phong thủy tuyệt hảo, cách trung tâm nha môn chỉ vài bước. Không biết hai vị thấy sao, có muốn đi xem thử?”

Hải Triều hỏi: “Có rộng rãi và đẹp đẽ như nhà họ Tô không?”

Giả Tam cười gượng: “Tĩnh An không giống Nam Thành, đất đai tấc vàng tấc ngọc, dĩ nhiên hơi chật hơn chút.”

Hải Triều lại hỏi: “Bao nhiêu tiền?”

Giả Tam đáp: “Nhà họ Trương là danh môn vọng tộc, không gấp gì chuyện bán, nếu không phải tiểu nhân đây là bằng hữu từ đời huynh phụ, thì Trương công tử cũng quyết không bán đâu. Tiểu nhân thấy hai vị dung mạo bất phàm, khí chất thanh cao, không phải con cháu quyền quý thì cũng là dòng dõi thư hương, chỉ có bậc long phượng trong thiên hạ như hai vị, mới xứng ở nơi phong thủy bảo địa như vậy…”

Hải Triều nghe hắn ba hoa chích chòe, sốt ruột cắt lời: “Ngươi chỉ cần nói giá.”

Giả Tam đáp: “Nếu hai vị thực lòng muốn mua, tiểu nhân sẽ cố gắng mở miệng với Trương lang, ép giá xuống còn mười hai vạn quan. Kẻ khác đến thì tiểu nhân cũng chẳng dám tốn công.”

Hải Triều giả vờ kinh ngạc, trừng mắt: “Mười hai vạn quan? Nghe nói Tô gia còn chưa đến năm vạn! Ngươi thấy bọn ta từ nơi khác đến, nên định chém một nhát cho sướng phải không?”

Giả Tam cuống quýt: “Nào dám, nào dám! Vị trí khác nhau, giá cả dĩ nhiên chênh lệch…”

Hải Triều: “Bọn ta lại thích chỗ hẻo lánh, ngươi tìm giúp ta căn nào khuất nẻo như Tô phủ, diện tích tương đương, giá tầm năm sáu vạn quan, được không?”

Giả Tam ấp úng: “Mỗi nhà mỗi khác, không thể lấy một mà nói cả được…”

Hải Triều lạnh giọng: “Vậy thì Tô phủ có gì khác biệt mà giá lại rẻ thế?”

Rồi nàng chậm rãi nói: “Là vì có ma phải không?”

Sắc mặt Giả Tam biến đổi tức thì: “Hai vị đã biết, sao còn vòng vo giễu cợt tiểu nhân? Xin thứ lỗi không tiếp nữa.”

Nói rồi hắn xoay người lách vào trong cửa, dứt khoát dứt lời.

Cửa còn chưa kịp đóng lại, Hải Triều đã dùng kiếm gỗ đào nạy vào khe cửa, thuận thế đá một cước khiến Giả Tam lảo đảo ngã lăn ra đất.

“Ngươi buôn bán kiểu đó đấy à?” Hải Triều khoanh tay nói.

Giả Tam lồm cồm bò dậy, vừa xoa mông vừa rên rỉ “ái da ái da”: “Tiểu nhân chẳng qua chỉ kiếm ít tiền chạy vặt dẻo mồm thôi, không dám đắc tội với hai vị quý nhân, xin hai vị tha cho tiểu nhân.”

Hải Triều nói: “Ngươi đừng vội đuổi người, chúng ta còn chưa hỏi xong mà!”

Lương Dạ từ tay áo lấy ra một thỏi bạc vụn nửa lượng, kẹp giữa ngón tay: “Chúng ta không phải đến gây chuyện, chỉ cần ngươi trả lời thật lòng.”

Giả Tam bị ánh bạc lóa mắt, nheo nheo nhìn, mặt mũi đầy vẻ thèm thuồng, nhưng vẫn còn do dự không dám đưa tay ra: “Hai vị… không có quan hệ gì với Tô gia chứ?”

Lương Dạ: “Chúng ta không liên quan đến Tô gia, chỉ muốn hỏi về tòa biệt viện đó thôi.”

Giả Tam cúi đầu cân nhắc chốc lát, cuối cùng cũng hạ quyết tâm: “Hai vị muốn biết gì?”

“Biệt viện đó là ai xây?” Lương Dạ hỏi.

Mặt Giả Tam hiện vẻ đắc ý: “Nói đến chuyện này thì xưa nay vẫn nhiều thuyết khác nhau, tiểu nhân từng tra khắp sử sách, phương chí, thậm chí cả dã sử, rồi còn tìm người dò hỏi khảo chứng khắp nơi, trong đó có một thuyết đáng tin nhất, nói rằng đây là sơn trì uyển được xây từ thời Cảnh Hoàng đế nước Quách, khi ông ẩn cư.”

Hải Triều dù không đọc nhiều sách, cũng biết rằng trong thế giới của bọn họ, ba trăm năm trước làm gì có nước Quách. Thoạt nhìn thì thế giới này chẳng khác gì bên ngoài, nhưng lại có lai lịch riêng biệt.

Xét từ giọng điệu của Giả Tam, vị Cảnh Hoàng đế kia hình như là nhân vật rất nổi danh trong cõi này.

Lương Dạ bình thản gật đầu.

Chính vẻ điềm nhiên ấy lại khiến người ta không dò nổi nông sâu.

Giả Tam bất an xoắn chặt hai tay.

Hải Triều nói: “Nhà ba trăm năm trước mà giờ vẫn còn ở được? Ngươi bịa đấy à?”

Giả Tam nhướng mày: “Hai vị đừng vội không tin, không phải tiểu nhân bịa đặt bừa bãi đâu, có chứng cứ hẳn hoi, có dấu tích hẳn hoi, Giả Tam này tuy không có một văn dính túi, tay không tấc sắt, nhưng trong bụng có tới vạn quyển sách.”

Bộ dạng lêu lổng lưu manh của hắn như rạn nứt một khe hở, thấp thoáng hiện ra bóng dáng một nho sinh bảo thủ cố chấp, ôm chí lớn mà không gặp thời, tựa u hồn ngày hôm qua.

Vừa khôi hài vừa đáng thương, vừa buồn cười lại vừa thê lương.

“Nếu từng là nơi vua ở, sao lại có ma?” Hải Triều hỏi.

Giả Tam lắc đầu: “Không ai biết cả. Từ nước Đại Quách tới nay, giang sơn đã ba lần thay chủ, trong thời gian đó chiến loạn triền miên, tai ương không ngớt, cô hồn dã quỷ trong thành còn nhiều hơn cả người sống, mấy tòa nhà có dị tượng cũng chẳng phải chỉ mỗi căn ở phía nam thành kia.”

Hải Triều hừ lạnh: “Dị tượng? Nói nghe nhẹ nhàng nhỉ, căn nhà đó còn ăn người rồi đấy, mà ngươi bảo là dị tượng?!”

Giả Tam kinh ngạc: “Hai vị biết chuyện đó rồi?”

Hải Triều: “Chuyện đi hỏi trong thành là biết, ngươi rõ ràng biết tòa nhà đó có vấn đề, mà vẫn nhắm mắt bán cho người ngoài tỉnh à?!”

Giả Tam vội kêu oan: “Tiểu nhân cũng là người đọc sách Thánh hiền mà lớn lên, quyết không làm chuyện khuất tất. Tiểu nhân chưa bao giờ che giấu gì về điểm bất thường của căn nhà đó cả, là người ta nhất quyết đòi mua.”

Lương Dạ trầm ngâm giây lát: “Ngươi nói thế nào?”

Giả Tam: “Tiểu nhân đã nói rồi, tòa nhà này xung khắc chủ nhân, từ trước đến nay xảy ra không ít chuyện, còn có lời đồn có dân chạy nạn chết trong đó, các loại dị trạng, từng điều từng điều đều khai rõ hết cả, hắn nói không sao, sẽ mời cao tăng đạo sĩ đến làm pháp sự trấn trạch, dù tiểu nhân có cản thì hắn cũng tìm kẻ trung gian khác để mua.”

Lương Dạ hỏi: “Người bán là ai?”

Giả Tam: “Là sản nghiệp của nhà họ Cố, Cố thị là thế gia có tiếng ở Giang Nam, chỉ là hiện nay cả nhà họ Cố, từ phụ tử đến huynh đệ đều làm quan trong triều, ở Ngô Quận còn có tổ trạch khác, biệt viện này sau khi mua xong vẫn luôn bỏ trống, chỉ là một phần tài sản, chưa từng có người ở. Lần này bán, cũng chỉ là sai người quản sự quay về Giang Nam để bàn bạc.”

Hải Triều nhìn hắn đầy nghi ngờ: “Ngươi nói thật đấy chứ?”

Giả Tam giơ tay thề thốt: “Tuyệt không có nửa câu dối trá.”

Dù nàng có hỏi thế nào, Giả Tam cũng khăng khăng nói thật, còn thề thốt dập đầu, lấy tính mạng cả nhà, mồ mả phụ mẫu ra cam đoan.

Hai người không hỏi thêm được gì nữa, đành đưa nửa lượng bạc cho hắn rồi rời khỏi nhà Chu Tứ Nương.

Ra đến đầu ngõ, Hải Triều lấy chuôi kiếm khẽ chọc vào tay Lương Dạ: “Ngươi thấy Giả lão Tam nói thật không?”

Lương Dạ: “Nàng nghĩ sao?”

Hải Triều nhíu mày: “Hắn còn lôi cả mồ mả phụ mẫu ra thề, không giống như nói dối, nhưng mà…”

Nàng lắc đầu: “Đám người này nói chuyện cứ quanh co, cảm giác như vẫn giấu gì đó.”

Lương Dạ khẽ gật đầu: “Dù là lời thật, cũng chưa chắc là toàn bộ sự thật.”

Hải Triều lại nói: “Ngươi nói xem Tô Đình Viễn kia nghĩ gì, đâu phải không có tiền, có đến mức vì ham rẻ mà mua cái nhà có ma ư? Mời người làm pháp sự cũng đâu rẻ, rốt cuộc là vì cái gì? Hay là vẫn do Giả lão Tam bịa chuyện, giấu nhẹm chuyện có ma với hắn?”

Lần này Lương Dạ lại đáp: “Chưa chắc.”

Cô hơi nhướng mày: “Ý ngươi là sao?”

“Nhà họ Tô là thương nhân từ nơi khác đến, nhưng vừa đặt chân đến Vu Thành đã có thể cùng quan viên bản địa nâng chén hàn huyên, còn tên Giả Tam kia chỉ là một kẻ cờ bạc vô lại không chỗ nương thân, nếu thật sự là Tô Đình Viễn bị hắn lừa, chắc chắn sẽ không dễ dàng tha cho hắn. Giả Tam cũng không thể tiếp tục lượn lờ nghênh ngang trong thành như vậy.”

Hải Triều đành phải thừa nhận lời hắn nói có lý.

Vấn đề lại quay về điểm ban đầu.

Nàng nghĩ mãi không ra: “Vậy rốt cuộc tại sao Tô Đình Viễn đã biết căn nhà đó có ma quỷ mà vẫn còn muốn mua?”

Nàng lắc lắc cái đầu đang căng đau: “Thôi bỏ đi, cái đầu gỗ này của ta, có vắt óc cũng không nghĩ ra nổi. Vẫn là để người thông minh như ngươi lo thì hơn.”

“Không phải Hải Triều không thông minh,” Lương Dạ nói, “Chỉ là nàng luôn lấy lòng tốt mà đo lòng người thôi. Nàng vĩnh viễn không tưởng tượng nổi con người có thể độc ác đến mức nào.”

Hắn khẽ dừng lại, quay sang nhìn nàng, trong mắt hiện lên nét dịu dàng: “Như vậy cũng tốt.”

Nói xong lại quay đầu nhìn thẳng về phía trước: “Trình Hàn Lân bọn họ chắc đã có mặt ở quán ăn rồi, đi thôi.”

Hải Triều liếc nhìn hắn, thấy ánh hoàng hôn nghiêng nghiêng phủ lên một bên mặt hắn một lớp sáng vàng ấm áp, nhưng dáng vẻ hắn vẫn thanh lãnh như cũ, như thể cơn mưa lúc tái ngộ hôm ấy không chỉ làm ướt y bào và tóc da của hắn, mà còn thấm vào tận xương cốt, hòa vào trong đôi mắt kia.

Nàng lại một lần nữa nhận ra, mình chẳng hiểu gì về Lương Dạ cả.

***

Chương tiếp theo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *