Chương 19: Tòa nhà ăn thịt người (15)
***
Hải Triều chợt hiểu ra, chủ tiệm là người có giọng nói sang sảng, lại chẳng hề hạ thấp giọng khi trò chuyện, những lời vừa rồi của họ, tám chín phần là Lương Dạ đứng ngoài nghe thấy cả rồi.
Thật mất mặt chết đi được! Hai má vừa mới nguội lạnh của nàng lập tức lại bừng bừng nóng rực.
Nào ngờ bà chủ lại còn thêm dầu vào lửa, vừa nhướng mày vừa cười toe toét, nói với Lương Dạ: “Để tiểu lang quân đợi lâu rồi, mau nhìn nương tử nhà cậu xem, mặc bộ này xinh biết bao!”
Hải Triều cứ tưởng Lương Dạ sẽ phản bác, ai ngờ hắn chẳng nói một lời, chỉ liếc nhìn nàng một cái rồi như bị bỏng, vội vàng dời ánh mắt đi.
Hải Triều muốn giải thích, nhưng thời cơ đã lỡ, giờ mở miệng lại càng thừa thãi.
Bà chủ đưa tay che miệng cười khúc khích: “Ái chà, tiểu lang quân thẹn thùng rồi kìa~”
Mồm thì trêu ghẹo, nhưng tay bà lại chẳng hề chậm trễ, nhanh nhẹn lấy ra một chiếc đai thắt lưng da đen viền vàng hình song ngư, tháo mấy đoạn xích, ướm thử lên eo Hải Triều: “Thế này là vừa rồi đấy.”
Đang định thắt lại giúp nàng, thì bên ngoài chợt có người gọi: “Hoàng Nhị Nương có trong đó không? Hôm qua hẹn ta đo người, sao chẳng thấy đâu?”
Bà chủ vỗ trán đánh “bốp”: “Ối trời ơi, quên khuấy mất chuyện này!”
Bà ta vội vàng quay sang Hải Triều cười áy náy: “Khách quen, tính tình lại nóng nảy, để ta ra tiếp một chút.”
Vừa nói vừa nhét đai thắt lưng vào tay Lương Dạ: “Phiền tiểu lang quân đại giá, giúp nương tử nhà cậu thắt giúp nhé!”
Hải Triều giật lấy chiếc đai từ tay hắn: “Ta tự làm được.”
Nào ngờ cái móc hình song ngư đó chẳng biết có cơ quan gì, nàng loay hoay mãi vẫn không tài nào gài vào được, cúi đầu mò mẫm cả buổi, đến mức trán rịn mồ hôi.
Lương Dạ nhẹ giọng nói: “Đưa ta xem một chút.”
Hải Triều tức tối quăng cái đai vào lòng hắn. Lương Dạ đón lấy, quan sát một lúc hình dạng của cái móc, rồi nhẹ nhàng bẻ một miếng đồng nhỏ ra ngoài: “Phần miệng cá có một lẫy nhỏ, bật nó lên, sau đó gài cái móc ở đuôi cá là được, đơn giản thôi.”
Hải Triều vốn trời sinh vụng về, lại ghét những việc đòi hỏi khéo tay, từ hồi hai người nương tựa vào nhau, vá áo đan lưới, thậm chí cả xâu dây trường mệnh dịp Đoan Ngọ đều là Lương Dạ làm thay.
Hắn lật tay một cái, hai móc đồng đã gài khít vào nhau.
Nàng bĩu môi nói: “Chậm chút đi, ta còn chưa nhìn rõ.”
Lương Dạ bèn giảm tốc độ, thao tác lại lần nữa, vậy mà Hải Triều vẫn chưa học được, cũng ngại chẳng dám mở miệng nhờ thêm, đành mặt dày nhận lại, cúi đầu loay hoay tự mình thắt.
Một lúc sau, Lương Dạ khẽ thở dài: “Để ta làm đi.”
Hải Triều hừ khẽ một tiếng từ mũi, nhưng không ngăn lại.
Lương Dạ bước tới, nhận lấy cái móc từ tay nàng, cúi đầu nói khẽ: “Là chỗ này, chỉ cần bật lên là được.”
Hắn vừa kề sát, mùi hương thanh đạm nhè nhẹ kia càng rõ ràng hơn. Hải Triều cụp mi mắt nhìn đôi tay thon dài của hắn khẽ động, cảm giác trong lòng cũng như có thứ gì bị khơi dậy, lỡ nhịp một chút.
May mà tay Lương Dạ nhanh nhẹn, chẳng mấy chốc đã cài xong móc đôi cá, đứng thẳng người lui lại một bước: “Xong rồi.”
Hải Triều cúi đầu nhìn hai con cá nhỏ, miệng chạm miệng, đuôi quấn đuôi, trông vừa vui vẻ vừa âu yếm.
Thấy ngứa mắt quá, nàng liền cong ngón tay bật lên đầu mỗi con một cái.
Bà chủ tiếp đãi xong khách quen liền nhanh chóng quay lại, không ngớt lời khen, còn lấy gương đồng sáng choang cho nàng soi.
Hải Triều lớn đến từng này, chưa từng thực sự để tâm đến dung mạo mình. Nàng biết mình không xấu, thường có người khen nàng xinh xắn thanh tú, nhưng chưa bao giờ để vào lòng. Trong nhà cũng không có cái gương đồng nào to và sáng thế này, lần đầu nhìn kỹ gương, như thể thay một đôi mắt khác để nhìn khuôn mặt mình, bỗng cảm thấy xa lạ vô cùng.
Nàng đưa tay sờ mặt, lại nghịch túi đá lửa treo bên đai lưng, hơi chần chừ: “Thế này… hợp không? Trông hơi lạ thì phải…”
Chưa nói dứt câu, từ trong gương, nàng nhìn thấy Lương Dạ, hắn cũng đang nhìn nàng, ánh mắt khẽ lay động, như gợn sóng lăn tăn trong nước.
“Không lạ.” hắn cụp mắt, “Rất đẹp.”
Hải Triều kinh ngạc há miệng, không dám tin vào tai mình.
Đây là lần đầu tiên Lương Dạ khen nàng đẹp.
Nếu là trước kia, ba chữ này đủ khiến nàng vui mừng mấy ngày liền. Thế nhưng hiện tại…
Giống như một con cá mắc cạn trên bãi bùn tối, tuyệt vọng chờ thủy triều lên, chờ từ sáng đến tối, mà đến lúc nước dâng ngập bờ thì nó đã khô kiệt mà chết rồi.
Hải Triều cúi đầu, búng hai con cá vàng trên đai lưng: “Cả đám bị nắng hong khô hết rồi.” nàng thầm nghĩ.
Đến khi ngẩng đầu, nàng đã nén hết những suy nghĩ lộn xộn kia xuống, khuôn mặt nóng như thiêu cũng đã bình ổn trở lại.
“Ngươi cũng chọn một bộ đi.” Nàng dửng dưng nói với Lương Dạ như thể công việc.
Lương Dạ nhìn nàng, dường như có chút bối rối, nhưng cuối cùng không nói gì, tiện tay chọn lấy một bộ áo gấm màu thiên thanh họa tiết nhánh trúc, vào trong thay đồ, thắt lưng đeo đai bạc, búi tóc đổi sang trâm ngọc bích.
Vốn đã mang khí chất cao quý, mặc áo vải thô vẫn như công tử thế gia, nay có thêm cẩm bào ngọc đai, càng như toả sáng, khiến người không dám nhìn thẳng.
Bà chủ tiệm không ngớt lời tán thưởng: “Tiểu lang quân cứ như tượng ngọc, ai thấy mà chẳng khen là công tử nhà quyền quý.”
Hải Triều lại nhờ bà chủ cắt thêm mấy thước vải để bọc đạo bào cũ của cả hai, trả giá, thanh toán xong, liền cùng Lương Dạ rời khỏi cửa tiệm.
Chỉ chậm trễ một lúc mà mặt trời đã lên cao gần tới đỉnh đầu.
Hai người băng qua phố lớn ngõ nhỏ, đến chỗ “Tiểu Bắc Lý” mà Lý Cát nói.
Hai bên đường là những lầu gác san sát, so với chỗ khác thì tinh xảo hơn nhiều, nhưng xe ngựa thưa thớt, cửa đóng then cài, vắng tanh lạnh ngắt, hoàn toàn không như Hải Triều tưởng tượng.
Nàng không biết rằng kỹ viện tửu quán khác với tiệm thường, chưa đến chiều là chưa mở cửa.
“Chẳng lẽ tới nhầm chỗ rồi?” Nàng đưa mắt nhìn quanh, muốn nhìn kỹ mà lại chẳng dám nhìn quá kỹ.
Lương Dạ nói: “Những nơi thế này phải đợi đến tối mới náo nhiệt.”
Hải Triều liếc hắn một cái: “Hiểu rõ nhỉ.”
Lương Dạ: “…Chỉ là suy đoán theo lẽ thường thôi.”
Hải Triều tỏ vẻ chẳng quan tâm: “Dù sao cũng không liên quan đến ta.”
Lương Dạ hình như không nghe thấy, chỉ dặn nàng đến “Miên Vân Các” phải làm gì, hỏi han thế nào, Hải Triều đều nhớ kỹ.
Rất nhanh, hai người đã tìm được “Miên Vân Các” như lời Lý Cát nói. Lầu hoa ba tầng, cao hơn hẳn so với các toà hai bên, mặt tiền lộng lẫy hoa lệ, rất dễ nhận ra.
Lúc này trước cửa có hai hàng lồng đèn đều còn tắt, một tiểu đồng chừng mười lăm, mười sáu tuổi đang uể oải tựa vào khung cửa ngáp dài, thấy hai người bước đến, ánh mắt đảo một vòng, đầy nghi hoặc: “Hai vị khách đến sớm quá, muốn dùng bữa hay nghe hát uống rượu?”
Lương Dạ nói: “Nghe hát.”
Tiểu đồng hơi do dự, nhưng liếc nhìn y phục cùng dung mạo của họ, có lẽ thấy cả hai đều ăn mặc sang trọng, khí chất bất phàm, cuối cùng vẫn đưa họ vào trong.
Trong lầu quả nhiên chẳng có mấy khách, chỉ một bàn có hai gã nam nhân mắt trũng, mặt phù, da bóng nhẫy đang ngồi đối ẩm, bên cạnh là một nữ tử hơn ba mươi, mặc váy lựu, khoác lụa mỏng, rót rượu châm trà hầu hạ.
Hải Triều trông thấy một trong hai gã chậm rãi vuốt mu bàn tay nàng, rồi kéo cánh tay nàng qua, ôm vào lòng, hai người môi chạm môi, cùng nhau rót rượu miệng.
Lương Dạ bước lên trước chặn tầm nhìn của nàng, nhưng đã quá muộn, Hải Triều trông thấy hết, trong lòng lạnh buốt, tay chân mặt mũi đều ngứa ngáy, cứ như có sâu bò trên da.
“Đói không?” Lương Dạ hỏi.
Hải Triều vốn cũng đói thật, nhưng thấy cảnh này chẳng khác nào nuốt sống một muỗng mỡ lợn, còn đâu mà nuốt nổi, mặt mày tái xanh, chỉ biết lắc đầu quầy quậy.
Lương Dạ liền hỏi tiểu đồng: “Ở đây có chỗ nào yên tĩnh không?”
Tiểu đồng liếc nhìn túi tiền căng phồng bên hông Hải Triều, mỉm cười đáp: “Có phòng riêng, xin hai vị khách quý lên lầu.”
Lên lầu, có một phụ nhân khoảng ba mươi lăm, ba mươi sáu tuổi, trang điểm đậm, tóc vấn cao như mây, bước ra đón, tự xưng là Vân Dung, nhiệt tình mời họ ngồi xuống, lại cho người bày bàn, dọn rượu thức ăn: “Hai vị thích nghe khúc nào?”
Hải Triều hỏi: “Ở đây có một vị nương tử tên là Ngô Mị Khanh không?”
Sắc mặt Vân Dung thoáng hiện vẻ kinh ngạc: “Tiểu lang quân sao lại biết người này?”
Lương Dạ khẽ nhấc mí mắt, điềm nhiên hỏi: “Người này có gì không ổn sao?”
Vân Dung mỉm cười: “Cũng chẳng phải không ổn, chỉ là hiếm có khách nào gọi đích danh nàng, nô tỳ thấy hơi lạ. Hai vị có quen nàng chăng? Hay là… nàng có vô tình mạo phạm đến hai vị?”
Lương Dạ: “Nàng ta thường đắc tội người khác à?”
Vân Dung cười đáp: “Chúng nô tỳ vốn là phận cửa son bán nụ cười, đón đưa kẻ đến người đi, lỡ lời đắc tội cũng là chuyện thường tình.”
Hải Triều sợ nói nhiều lộ sơ hở, lại sinh chuyện ngoài ý muốn, bèn tỏ vẻ không vui, tháo túi tiền nặng trịch bên hông đặt cái “cạch” lên bàn, bạc kêu leng keng: “Nàng ta không đắc tội với bọn ta. Ngươi chỉ cần nói có hay không, vòng vo tam quốc là muốn moi chuyện từ bọn ta phải không?”
“Tiểu lang quân đừng trách, là nô tỳ nhiều lời.” Vân Dung vội cười làm lành, rồi gọi một a hoàn: “A Ngô có trong phòng không? Hai vị quý khách chỉ đích danh muốn nàng đàn hát.”
A hoàn ấy không giấu được vẻ kinh ngạc: “Ngô nương tử có khách từ đêm qua, giờ khách vẫn chưa rời đi.”
Hải Triều nói: “Vậy thì chờ đi.”
Vân Dung tỏ vẻ áy náy: “Hai vị quý khách muốn nghe khúc gì? Nô có hai nữ nhi, biết đôi chút về đàn cầm, đàn tỳ bà, tuy thân phận thấp hèn, nhưng lanh lợi khéo léo, cũng không đến nỗi làm bẩn tai hai vị. Để chúng đến rót rượu hầu hạ, được chăng?”
Lương Dạ nói: “Được.”
“Xin hai vị dùng ít trà bánh, chờ trong chốc lát. Nô sẽ gọi bọn nó lên ngay.” Vân Dung sai một a hoàn mặc áo lụa vàng rót rượu, còn mình thì khẽ lay tà váy, thân hình uyển chuyển, lượn lờ xuống lầu.
Chẳng bao lâu, một nương tử mặc áo tía khoảng hai mươi sáu, hai mươi bảy tuổi ôm tỳ bà, đi phía sau là một nương tử khoảng đôi mươi mặc áo hồng nhạt, tay bế cây đàn cầm, bước từng bước nhẹ nhàng lên lầu. Thấy Lương Dạ, cả hai đều lộ vẻ kinh diễm, nhưng vừa liếc sang Hải Triều lại tức liếc nhìn nhau, rồi cùng thấu hiểu mà thu lại ánh mắt, ánh nhìn quy củ dừng ở Hải Triều, không dám nhìn sang Lương Dạ nữa.
Hai người tiến lên hành lễ, tự giới thiệu tên: nương tử áo tía gọi là Phong Lai, còn nương tử áo hồng tên là Lộ Lạc.
Lộ Lạc lanh lợi đáng yêu, còn Phong Lai tuy ngũ quan bình thường, đặt giữa đám người không nổi bật, nhưng từng cử chỉ đều mang vẻ yêu kiều quyến rũ, đặc biệt là đôi mắt long lanh nước ấy, vô cùng lay động lòng người.
Hải Triều không kìm được liếc nhìn vài lần, thầm lấy làm lạ: “Mẹ các nàng nhìn còn trẻ thế, sao có nữ nhi lớn như thế này rồi?”
Hai người lại nhìn nhau cười, Lộ Lạc nhịn không được “phì” một tiếng, rồi cả hai phá lên cười như hoa nở đầy cành, thấy Hải Triều không hiểu đầu cua tai nheo gì, vội cười giải thích: “Không phải mẹ của nô tỳ đâu, chỉ là mẹ nuôi. Trong lâu này, ai cũng là nữ nhi của bà ấy.”
Lộ Lạc nghiêng đầu đánh giá nàng, rồi nghiêng người dựa lại gần, giả như vô tình đặt bàn tay ngọc ngà lên cánh tay Hải Triều, khẽ hỏi: “Tiểu lang quân hẳn là lần đầu đến nơi này chơi? Da mặt mỏng vậy, không biết năm nay xuân thu bao nhiêu?”
Hải Triều chưa từng gặp cảnh thế như vậy, thấy hơi thở nàng ta thơm như lan, như một làn sương thơm phủ kín mặt mày, đột nhiên đầu óc quay cuồng, tim đập thình thịch, mặt đỏ bừng, lưỡi như bị thắt lại, một chuỗi câu hỏi kia chẳng biết nên trả lời cái nào trước.
Lương Dạ lên tiếng: “Xá đệ còn nhỏ, hai vị xin đừng đùa giỡn.”
Thái độ vẫn ôn hòa, khẩu khí cũng không trách mắng, nhưng lại mang theo sự uy nghiêm không thể kháng cự.
Căn phòng ấm áp đầy hương thơm, trong thoáng chốc như có luồng gió lạnh lùa qua.
Hai nương tử vẫn giữ nụ cười trên mặt, nhưng ánh mắt đong đưa nơi đầu mày cuối mắt đã thu liễm không ít. Phong Lai còn đỡ, Lộ Lạc thì rõ ràng có phần ngượng ngùng, lập tức ngồi ngay ngắn, không tiếp tục trêu chọc Hải Triều nữa.
“Hai vị tiểu lang quân muốn nghe khúc nào?”
Hải Triều ngoài điệu dân ca quê nhà thì chỉ còn nhớ được bài hát mà mẹ Lương Dạ từng dạy, phần lớn đều đã quên, chỉ có ‘Khúc Tây Châu’ là hát được trọn vẹn, nhưng giờ đã tách bạch với Lương Dạ, nàng đương nhiên cũng không muốn nghe khúc đó nữa.
“Ngươi cứ đàn tùy ý là được.”
Phong Lai đáp: “Nô xin múa rìu qua mắt thợ vậy.”
Nói xong liền ôm tỳ bà, vặn trục lên dây, ngón tay thoăn thoắt gảy đàn, miệng cất tiếng hát khẽ:
“Mặt trời tàn trước cửa đông, đèn soi bến cũ, ngóng trông bóng người.
Đồng hoang vương nỗi chơi vơi, hương bay phảng phất lối hồng người đi…”
Hải Triều không phân biệt được kỹ thuật hay dở, chỉ thấy tiếng tỳ bà trong trẻo tròn trịa, như giọt sương lăn trên lá sen, còn giọng hát thì bi ai mà lay động lòng người, cho dù chẳng nghe rõ lời ca, nhưng lòng vẫn bị giai điệu dẫn dắt lên xuống từng hồi.
Khi nàng hát đến câu: “Đèn soi khe vắng đìu hiu, bóng ai lặng lẽ, hẹn nhiều vẫn không”, Hải Triều không hiểu sao trong lòng chợt chua xót, nghẹn ngào khó tả.
“Hải Triều?” Giọng Lương Dạ cắt ngang tiếng đàn hát của nương tử áo tía.
Hải Triều sực tỉnh, đưa tay lên mặt, mới phát hiện má đã ướt đẫm từ lúc nào.
Phong Lai “a” khẽ một tiếng, vội buông tỳ bà, lấy khăn lau nước mắt cho nàng, liên tục xin lỗi: “Đều tại cái giọng khàn của nô, hát dở đến nỗi khiến tiểu lang quân phải khóc rồi.”
Hải Triều ngượng ngùng hít hít mũi: “Không trách ngươi, ngươi hát rất hay, chỉ là ta nghe không hiểu.”
Lộ Lạc nói: “Tiểu lang quân cảm động bởi tiếng đàn của tỷ tỷ, đủ thấy là người có chân tình, còn hơn đám giả vờ thanh cao, ra vẻ phong nhã ngoài kia gấp bội lần.”
Hải Triều mời nàng đánh đàn.
Lộ Lạc ngồi dịch ra một chút, đặt đàn cầm lên đầu gối: “Nô học nghệ chưa lâu, hai vị lang quân đừng chê cười.”
Nói xong khẽ gảy bảy dây, vừa đàn vừa hát, Phong Lai bên cạnh nhẹ nhàng đánh nhịp theo. Kỹ nghệ nàng không bằng Phong Lai, nhưng cũng êm tai dễ nghe.
Đánh xong một khúc, nàng đặt đàn xuống, hành lễ: “Bêu xấu rồi.”
Hải Triều hỏi đó là khúc gì, Lộ Lạc đáp: “Khúc ấy gọi là ‘Xuân sơn nghe đỗ quyên’.”
Hải Triều khen: “Nghe hay lắm.”
Hai kỹ nữ đều rửa tay sạch sẽ bằng nước thơm do thị nữ dâng lên. Phong Lai rót rượu, còn Lộ Lạc thì nhón một quả anh đào từ khay lưu ly, đưa đến bên miệng Hải Triều: “Tiểu lang quân dùng chút đi.”
Hải Triều lập tức đỏ bừng hai má như lửa đốt, nhận thì không được, mà không nhận cũng chẳng xong.
Lộ Lạc giả bộ đau lòng: “Tiểu lang quân chê nô sao?”
Hải Triều vội há miệng nhận lấy, luống cuống giải thích: “Không phải…”
Phong Lai liếc nàng một cái, mắng yêu: “Nha đầu lắm trò, chỉ ghẹo người thôi.”
Hải Triều lúc này mới hiểu là nàng đang trêu mình.
Nàng liếc về phía Lương Dạ, thấy hắn mặt vẫn bình thản, mắt cụp xuống, thỉnh thoảng nâng chén rượu chạm môi, nhưng rượu trong chén chẳng vơi đi là bao.
Hải Triều sực nhớ đến chuyện chính, nhưng không biết nên làm sao đưa câu chuyện sang hướng Tô gia và Ngô Mị Khanh, đang nghĩ ngợi thì Lộ Lạc đã nâng chén rượu bằng hai tay đến trước mặt Hải Triều: “Kính tiểu lang quân cạn chén này.”
Hải Triều đưa tay định nhận lấy, nhưng có một bàn tay đưa ra chắn trước mặt nàng.
Không cần nhìn cũng biết là ai.
Lương Dạ nói với Lộ Lạc: “Nàng ấy không thể uống rượu.”
Lộ Lạc rút tay lại: “Vậy để nô sai người nấu một bình trà thơm.”
Ngày trước, Hải Triều vẫn xem Lương Dạ như nửa ca ca, mấy chuyện nhỏ để hắn quản đôi chút cũng không để tâm. Nhưng giờ phút này lại thấy khó chịu, thầm nghĩ: Ngươi là gì của ta mà cấm ta?
“Ta không uống trà.” Nàng ngẩng mặt nhìn hắn, đầy vẻ không phục, “Vì sao ta không được uống rượu?”
“Tửu lượng nàng kém.” Lương Dạ đáp.
Hải Triều ở làng là nổi tiếng uống một bát đã say, nhưng nào chịu nhận. Nàng phồng má lên: “Ai nói thế? Rõ ràng ta là người có tửu lượng ngàn chén không say, vạn chén không ngã!”
Vừa nói vừa giật lấy chén rượu, làm đổ nửa chén lên tay áo Lương Dạ.
Hải Triều ngửa đầu uống cạn: “Đây mà là rượu gì, rõ ràng là nước hoa quả.”
Hai kỹ tử liếc nhìn nhau, Phong Lai tiến lên hòa giải: “Là rượu quả, không khiến người say đâu, một hai chén cũng chẳng sao.”
Lộ Lạc vội nói: “Nô hầu tiểu lang quân đến phòng tẩy rửa.”
Lương Dạ chỉ đáp: “Không cần.” Sau đó hỏi đường đến tịnh phòng, rồi đứng dậy đi xuống lầu.
Hắn vừa rời khỏi, Lộ Lạc khẽ thở phào một hơi, ghé sát tai Hải Triều nói nhỏ: “Vị huynh trưởng kia của tiểu lang quân thật nghiêm nghị, như tượng băng vậy. Nô là lần đầu gặp vị khách như thế!”
Hải Triều bật cười, nhưng vô thức lại thay hắn giải thích: “Là ta muốn mở rộng tầm mắt, hắn mới đưa ta đến.”
Lộ Lạc chớp mắt: “Nô biết ngay mà, vị lang quân đó trông đâu giống người thường lui tới chốn này.”
Hải Triều lấy làm lạ: “Nhìn ra được sao?”
Lộ Lạc “phì” cười: “Tất nhiên, kẻ giả bộ đứng đắn bọn nô gặp cũng nhiều, chỉ liếc qua là biết thật hay giả.”
“Dù hắn có đứng đắn hay không cũng chẳng liên quan đến ta.” Hải Triều lầm bầm, nhưng trong lòng lại cảm thấy dịu đi đôi phần.
Lộ Lạc đảo mắt một vòng, cười như không: “Vậy là nô hiểu lầm rồi, nếu đã vậy, nô có thể thân cận với vị lang quân đẹp như ngọc kia chứ?”
Hải Triều hoảng hốt: “Không được! Hắn… hắn đã đính thân rồi!”
Lộ Lạc và Phong Lai đều nhìn nàng, ánh mắt trêu ghẹo, nụ cười ý nhị.
Hải Triều lúc này mới hiểu Lộ Lạc hiểu lầm quan hệ giữa nàng và Lương Dạ, cố ý nói khích nàng, mà nàng lại không tiện giải thích người đính hôn với Lương Dạ không phải mình.
Trước sau đều khó xử, chỉ còn cách cúi đầu uống rượu.
Uống hai chén lúc nào chẳng hay, mãi đến khi cảm thấy đầu óc lơ mơ, mới biết mình đã xem nhẹ độ mạnh của rượu ở thành thị, vội đặt chén xuống.
Không lâu sau, Lương Dạ quay lại ngồi vào chỗ, liếc nhìn má nàng, hơi nhíu mày, nhưng cuối cùng không nói gì, chỉ nhấc bình rượu lên lắc thử, sắc mặt lại lạnh đi đôi chút.
Phong Lai vội nói: “Tiểu lang quân cũng dùng ít đồ ăn và trái cây đi, để lại chút rượu cho bọn nô nữa nhé.”
Nói xong liền tiện tay cầm lấy bình rượu, lại sai thị nữ pha trà giải rượu.
Lúc này sắc mặt Lương Dạ mới dịu đi đôi chút.
Hải Triều chỉ thấy men rượu dần dần bốc lên, đầu ngày càng nặng, mí mắt cũng bắt đầu trĩu xuống, cố gắng chống đỡ thêm một lúc, cuối cùng không chịu nổi, lầm bầm một tiếng “Ta chưa ngủ đâu…” rồi “bộp” một tiếng, trán đập thẳng xuống bàn ăn.
Không biết đã bao lâu trôi qua, Hải Triều mơ mơ màng màng nghe thấy có người đang nói chuyện.
“Tiểu lang quân thật sự biết xem tướng sao?”
“Gia truyền thuật xem tướng, tổ tiên từng xem cho ngàn người mà hiếm khi sai lệch. Truyền đến tại hạ, chỉ học được chút da lông, xem tay thì hơi chuẩn một chút.” Đó là giọng của Lương Dạ, so với thường ngày càng trầm hơn, âm cuối còn kéo dài, dường như đã có chút men say.
Hải Triều cau mày. Hắn biết xem tướng gì chứ, quỷ mới tin hắn!
Phong Lai và Lộ Lạc lại tưởng thật.
“Thật ư? Tiểu lang quân có thể xem giúp nô một quẻ không?”
“Cũng xem giúp nô đi…”
“Đương nhiên là được.” Lương Dạ dịu dàng đáp.
Hải Triều cố gắng mở mắt, lờ mờ trông thấy Phong Lai đưa tay ra đặt lên bàn: “Phiền tiểu lang quân xem giúp nô một chút…”
Lộ Lạc chen miệng: “Tiên sinh xem giùm tỷ tỷ chừng nào gặp được lang quân như ý…”
Phong Lai hừ nhẹ một tiếng: “Nha đầu chết tiệt, ai thèm hỏi cái đó! Tiên sinh chỉ cần xem giùm nô có mệnh phát tài không, để nô còn có cái mà trông mong.”
Lương Dạ cúi mắt nhìn kỹ một lúc rồi nói: “Xin đưa tay trái cho bần đạo xem.”
Phong Lai đổi sang tay trái, có phần xấu hổ: “Nô luyện tỳ bà mười mấy năm, tay trái thô to, lại nhiều chai, không được nhã nhặn, làm vấy bẩn mắt tiên sinh.”
Lương Dạ nói: “Phong Lai nương tử có tay dài và thon thẳng, xương cứng mà đẹp, lòng bàn tay hơi đầy đặn, là tướng mộc hình mang thổ, thổ mỏng mộc dày, ấy là tướng vượng tài.”
Phong Lai vui mừng không xiết: “Thật sao?”
Lương Dạ khẽ gật đầu.
Lộ Lạc vội nói: “Tiểu lang quân xem giúp nô với!”
Lương Dạ dịu dàng: “Lộ Lạc nương tử là tướng kim trung đới thổ…”
Hải Triều không thể nghe tiếp được nữa, thầm nghĩ: Bình thường ra vẻ thanh cao, giờ lại ăn nói đường mật, dỗ dành nữ nhân một bụng lời giả dối, quả nhiên dáng vẻ đàng hoàng đều là giả tạo.
Hồi nhỏ, mẹ của Lương Dạ từng dạy nàng một câu sách rằng: “Lời ngon tiếng ngọt, mặt mày niềm nở, thường là kẻ ti tiện.” Hắn chính là kẻ “lời ngon tiếng ngọt” ấy.
Nàng xoay người nằm nghiêng quay lưng lại phía hắn, kéo thứ gì đó phủ trên người trùm kín đầu mặt, chợt ngửi thấy một mùi hương quen thuộc, thanh đạm có chút đắng, mới nhận ra đó là áo khoác của Lương Dạ.
Nàng liền hất chiếc áo đó xuống đất.
Vừa định ngủ tiếp thì nghe Lương Dạ nói: “Xá đệ tỉnh rồi.”
Hải Triều chưa từng học được cách giả vờ ngủ, đành ngồi dậy: “Canh giờ nào rồi?”
“Tiểu lang quân mới ngủ chưa đến hai khắc.” Lộ Lạc cười đáp, “Vừa rồi Lương lang quân đang xem tướng tay cho bọn nô.”
Hải Triều nghiêng đầu, phồng má lên: “Nghe hết rồi.”
Phong Lai vội vàng nói: “Vừa rồi là bọn nô thất lễ, khẩn cầu Lương lang quân xem tay…”
Lộ Lạc cũng không dám đùa nữa, len lén quan sát sắc mặt nàng.
Hải Triều thấy hai người họ cẩn trọng như vậy, trong lòng bất giác sinh lòng thương xót. Những nữ nhân này sống nhờ vào sắc mặt kẻ khác, đằng sau lớp son phấn lộng lẫy, xiêm y hoa lệ ấy, chẳng biết cất giấu bao nhiêu khổ nhọc.
Bản thân nàng thật không nên làm mặt lạnh, trút giận lên hai người này.
Suy cho cùng, nàng chỉ không ưa cái kiểu ngoài lạnh trong nóng, trong ngoài bất nhất của Lương Dạ mà thôi.
Đang nghĩ ngợi thì Lương Dạ đã rót một chén trà nhạt đặt trước mặt nàng.
Hải Triều chẳng buồn nhìn hắn, cũng không động vào trà, chỉ quay sang Lộ Lạc: “Lộ Lạc tỷ tỷ, có nước không? Ngủ dậy thấy hơi khô miệng.”
Hai kỹ nữ như trút được gánh nặng, vội vàng hớn hở đi pha nước mật ong cho nàng.
Phong Lai hỏi: “Hai vị lang quân không phải người Vu Thành nhỉ?”
“Nhìn ra được sao?” Hải Triều hỏi lại.
Lộ Lạc cười: “Nếu trong thành có vị thần tiên như thế, bọn nô sao lại chẳng biết? Không phải khoác lác, chuyện lớn nhỏ trong thành này, bọn nô tuy chẳng nói là nắm rõ như lòng bàn tay, nhưng cũng nghe ngóng được ít nhiều.”
Hải Triều trước đó đã bàn bạc kỹ với Lương Dạ, giờ bèn ứng đáp trôi chảy: “Bọn ta đến từ phương Nam, định mua hoặc thuê một căn nhà ở Vu Thành định cư. Các tỷ thông tin lanh lẹ, có biết chỗ nào hợp ý không?”
Phong Lai hỏi: “Hai vị lang quân nhà có mấy người? Cần nhà lớn cỡ nào?”
Lương Dạ: “Cả nhà chuyển đến, bao gồm cả gia nhân, tổng cộng ba bốn chục người.”
Hải Triều nói tiếp: “Hôm trước bọn ta vào thành, thấy một ngôi nhà lớn ở phía nam, cửa sơn son, trên cửa có đinh vàng, trước sân còn có một cây hòe lớn. Ta thấy nhà đó chỉnh tề ngay ngắn, vườn rộng, rất ổn, không biết còn chỗ nào tương tự không?”
Lương Dạ: “Xá đệ vừa trông thấy căn nhà ấy liền rất vừa ý, chúng ta định tìm người môi giới hỏi thử, nếu chủ nhà bằng lòng nhượng lại, thì giá cả không thành vấn đề.”
Hai kỹ tử liếc nhau, Phong Lai hỏi: “Chủ nhà ấy họ Tô phải không?”
Hải Triều: “Phải, trên biển hiệu viết là ‘Tô phủ’.”
Hai người lại nhìn nhau, mặt mày đều như muốn nói lại thôi.
Hải Triều giả vờ khó hiểu: “Căn nhà ấy có gì không ổn à?”
Phong Lai do dự một lúc mới đáp: “Theo lý thì bọn nô không nên xen vào chuyện người khác, nhưng thấy hai vị lang quân là người chính trực, đối xử lại hòa nhã, nên cả gan nhiều lời một câu. Ngôi nhà ấy không tốt lành gì, dù chủ nhà có chịu bán, hai vị cũng chớ nên mua.”
Hải Triều hỏi: “Lời ấy là sao?”
Chưa đợi Phong Lai lên tiếng, Lộ Lạc đã hạ giọng nói: “Ngôi nhà ấy… là sống.”
Hải Triều lập tức nổi da gà, nhớ đến hôm đó đang đi trong rừng trúc, con đường dưới chân bỗng như rắn trườn động: “Lời này lại giải thích thế nào?”
Lộ Lạc đáp: “Nhà ấy âm tà lắm, giữa mùa hè mà muỗi ruồi chẳng thấy một con, đi ngang qua cũng thấy lành lạnh rờn rợn.”
“Căn nhà đó là ai xây?” Lương Dạ hỏi.
Phong Lai: “Cái đó thì chẳng ai rõ nữa, đã quá lâu năm, truyền miệng đủ kiểu. Có người bảo là biệt phủ của một vị vương gia đời trước, vì chiến loạn mà bỏ hoang. Sau này có người dọn vào, nhẹ thì nhà tan, nặng thì người chết.”
“Nghe nói nửa đêm đi ngang ngoài tường, còn có thể nghe thấy tiếng nữ tử hát u oán bên trong. Mấy năm trước từng có dân chạy nạn không rõ tình hình dọn vào, sau vụ ấy xảy ra, từ đó về sau ai nấy đều tránh xa.”
Lương Dạ hỏi: “Chuyện gì đã xảy ra?”
Lộ Lạc tranh lời: “Một người lưu dân, chỉ trong một đêm biến thành một bộ xương trắng sạch sẽ, các vị bảo có rùng rợn không?”
Hải Triều bất giác rùng mình, nhớ đến hài cốt vàng xám mà Quản sự Lý để lại, lạnh toát sống lưng.
Ánh mắt Lương Dạ hơi động: “Có lẽ là hài cốt cũ từ lâu, lời truyền thêm mắm dặm muối mà thành.”
Lộ Lạc lắc đầu: “Là thê tử của người đó báo quan, nói hài cốt kia vẫn mặc y phục của trượng phu nàng, cái răng khểnh đó nàng cũng nhận ra.”
“Còn có một chuyện quái lạ nữa…” Lộ Lạc liếc nhìn Phong Lai như có phần do dự, “Sau khi có người chết, căn nhà ấy… lại mới hơn.”
Trong lòng Hải Triều chợt động, bất giác nhớ lại bức tường sáng sớm nay sạch bong như mới, lưng lạnh buốt, quả nhiên không phải mình nhìn nhầm.
“Nó mới hơn?” Nàng hỏi.
Lộ Lạc nói ra đúng điều nàng nghĩ: “Như thể căn nhà đó hút lấy huyết nhục của con người mà lớn lên từng chút vậy.”
Toàn thân Hải Triều nổi gai ốc.
Phong Lai cũng tiếp lời: “Nghe lão nhân kể, căn nhà đó bỏ hoang ít thì cả trăm năm, các vị nghĩ xem, nhà hoang cả trăm năm mà chẳng mục, chẳng sập, trên đời có thứ kỳ quái như vậy sao? Dân trong thành chẳng ai dám mua đâu.”
Hải Triều nuốt nước bọt: “Nữ nhân kia báo quan rồi, quan phủ xử lý thế nào?”
Phong Lai thở dài: “Lưu dân vốn không có hộ tịch, quan phủ sao màng đến…”
Lộ Lạc phẫn uất: “Chẳng những không lo, mà còn nói nữ nhân kia yêu ngôn hoặc chúng, đánh cho mấy roi, còn định áp giải vào ngục. Nàng ấy bị dọa quá, mới vội vàng đổi lời, nói là phu quân nàng bỏ mẹ con họ mà đi.”
Hải Triều chợt nhớ đến năm xưa cha mẹ nàng bị quan phủ bức bách phải xuống biển mò ngọc, lần lượt bỏ mạng nơi đáy nước, chỉ để điểm xuyết cho xiêm y mão miện của bọn quý nhân, không khỏi cười lạnh: “Bọn cẩu quan ấy, từ xưa đến nay nào từng coi dân là người.”
Phong Lai vội nói: “Đừng nói mấy chuyện xui rủi này nữa, mất hứng của hai vị lang quân thì không hay.”
Lương Dạ lại hỏi: “Hai vị có biết nhà họ Tô ấy mua từ tay ai không?”
Lộ Lạc vô thức để lộ vẻ khinh thường: “Là của Giả lão Tam. Trước kia cũng có ít gia sản, lại là người từng đọc sách, nhưng thi mãi không đỗ, cũng không chịu tìm nghề lương thiện mà làm, chỉ lo ăn chơi bài bạc, ăn uống trác táng đủ trò.”
“Hắn đặc biệt mê cờ bạc, đến nỗi ruộng đất nhà cửa đều cầm cố hết, say rượu thì về nhà đánh thê mắng con, cả nhà sống nhờ vào thê tử hắn vất vả sáng sớm đi cắt cỏ nuôi heo kiếm cơm. Nếu không nhờ nàng ấy khéo thu xếp, e là đã phải đến bước bán thê bán con rồi.”
Nói đến đây, nàng nhìn sang: “Hai vị lang quân chớ tưởng bọn nô hồng phấn nơi yên hoa thì không có mắt nhìn người. Hạng nam nhân chuyên bắt nạt thê nhi trong nhà như vậy, bọn nô cũng chẳng coi ra gì. Đọc được mấy năm đèn sách, biết chút chuyện kim cổ triều đại, lại giỏi ăn nói, có thể hù được người ta. Hắn biết rõ ngôi nhà kia có quỷ mà vẫn nhẫn tâm kiếm món tiền này, chẳng sợ có mệnh kiếm tiền mà không có mệnh xài sao?
Lương Dạ hỏi: “Hắn ở đâu?”
Lộ Lạc: “Ban đầu ở trong thành, sau khi cầm cố tổ trạch thì dời ra ngoài thành Nam sống, hỏi mấy người quanh đó là biết. Hai vị lang quân nếu muốn mua nhà, tốt nhất là hỏi qua vài tay môi giới.”
Lương Dạ cảm tạ rồi lại hỏi: “Nhà họ Tô chuyển đến đã bao lâu?”
Phong Lai đáp: “Cũng ba đến năm tháng rồi.”
Lương Dạ: “Có từng xảy ra chuyện gì chưa?”
Lộ Lạc: “Sao lại không? Người nhà họ thì che che giấu giấu, nhưng đám tôi tớ phần lớn đều là dân bản địa, mấy chuyện quỷ quái trong phủ sớm đã truyền khắp nơi.”
“Nghe nói lúc tu sửa đã xảy ra chuyện, tháo hai gian phòng mà trước sau ngã bị thương bốn năm người, cuối cùng không tháo nổi. Thỉnh thoảng còn có gia súc bị ăn sạch trong một đêm, chỉ còn một đống xương, còn làm một phu xe phát điên. Nghe mà nổi da gà.”
Hải Triều hỏi: “Đã có ma quỷ như thế, sao họ còn không dọn đi?”
Lộ Lạc đáp: “Nghe đâu đã mời rất nhiều hòa thượng đạo sĩ đến trấn yểm, không biết có trấn được hay không.”
“Tiền mua nhà, sửa nhà cũng tiêu tốn không ít, giờ mà bán lại là không thể rồi. E rằng họ không cam lòng ném tiền qua cửa sổ, chỉ mong đừng xảy ra chuyện mất mạng.”
Nói đến đây, nàng như sực nhớ ra điều gì: “Đúng rồi, tỷ tỷ à, phu nhân nhà họ Tô ấy, chẳng phải vừa chuyển vào đã đổ bệnh rồi sao?”
Phong Lai gật đầu: “Nô cũng có nghe qua.”
Lộ Lạc tiếp: “Nghe đâu vị phu nhân đó xưa nay không ra khỏi cửa lớn, chẳng bước qua cửa nhỏ, lại là một đại mỹ nhân.”
Hải Triều hỏi: “Nam chủ Tô gia là người mở hiệu buôn? Chắc thường lui tới trong thành, các tỷ hẳn từng gặp rồi?”
Phong Lai và Lộ Lạc nhìn nhau, cả hai đều nở nụ cười hàm ý sâu xa.
Hải Triều hỏi tiếp: “Sao vậy? Người này có gì không ổn?”
Phong Lai đáp: “Lang quân Tô gia thì nô từng thấy một lần, lúc mới đến Vu Thành, hắn mời tiệc mấy vị môi giới, bao trọn cả một tầng lầu, ra tay cực kỳ phóng khoáng. Tỷ muội bọn nô cũng có đến hát vài khúc.”
Lộ Lạc tiếp lời: “Lang quân Tô gia đó diện mạo tuấn tú, phong độ phong lưu, vừa nhìn đã biết là người từng trải.”
Hải Triều nhớ đến dung mạo của Tô Đình Viễn, hỏi: “Hắn thường lui tới nơi này à?”
Lộ Lạc lắc đầu: “Chỉ đến có một lần, ra vẻ như chính nhân quân tử. Hoa khôi trong lầu ta còn hạ mình tới quyến rũ, mà hắn còn giữ kẽ, nói phải về bồi phu nhân ở nhà.”
Hải Triều ngờ vực: “Không lẽ nhìn nhầm người?”
Lộ Lạc đáp: “Nếu ngay cả hắn mà nô còn nhìn nhầm, thì móc mắt nô ra cho tiểu lang quân nhắm rượu đi là vừa. Gã đó, chỉ một ánh mắt thôi cũng đủ biết là kẻ phong lưu, làm mấy tỷ muội trong bàn tiệc say như điếu đổ.”
Nàng bĩu môi, giọng mang vẻ châm chọc: “Đến cả hoa khôi trong lâu cũng động lòng ngay lần đầu gặp, tương tư đến héo hon cả người.”
Phong Lai trách nhẹ: “Ngươi lại nhiều chuyện, để nàng ấy nghe thấy thì lại sinh sự.”
Lộ Lạc vẻ mặt vui sướng khi người gặp họa: “Nô vốn chẳng ưa cái vẻ giả thanh cao của nàng ta, ra vẻ khuê tú thế gia, cũng bị ánh mắt của tên họ Tô câu mất hồn mà thôi. Nghe nói mấy hôm trước còn thấp thỏm nhờ Lý quản sự trong Tô phủ giúp nàng ta đưa thư với khăn thêu nữa kìa.”
Nàng dừng một chút, như sực nhớ ra điều gì: “À đúng rồi, nghe mẹ nuôi nói, hai vị lang quân đang tìm Ngô Mị Khanh? Tên lão Lý ấy chính là khách quen của Ngô Mị Khanh đấy.”
Hải Triều đang lo không biết dẫn dắt chuyện đến Ngô Mị Khanh như thế nào, không ngờ đối phương lại chủ động nhắc đến, thuận thế hỏi luôn: “Phải, bọn ta được người nhờ gửi lời đến nàng ấy.”
Lộ Lạc: “Ra là thế, nô còn lấy làm lạ, ai lại chỉ đích danh muốn mụ Dạ Xoa ấy hầu hạ.”
Câu này nghe mà chua chát độc địa, Hải Triều thấy tò mò: “Sao lại nói thế?”
Phong Lai liếc Lộ Lạc, thở dài: “Ngô Mị Khanh thật ra cũng chẳng phải người xấu, chỉ là tính tình tệ một chút. Nói ra cũng là người đáng thương. Nàng ấy vốn là kỹ nữ nổi danh đất Kiến Nghiệp, là cố nhân của mẹ nuôi, sau vì đắc tội với khách, hủy mất dung nhan, lại hỏng cả giọng, đành đến Vu Thành nương nhờ mẹ nuôi.”
Lộ Lạc lại chẳng mấy cảm tình: “Trong lầu này ai mà chẳng đáng thương? Chỉ có nàng ta cả ngày chửi chó mắng mèo, véo tai a hoàn, mắng kẻ này chửi người kia, cứ tưởng mình còn là lúc phong quang ấy.”
Hải Triều hỏi: “Nàng ấy bao nhiêu tuổi?”
Phong Lai: “Tính ra chỉ ngoài ba mươi một chút, còn nhỏ hơn mẹ nuôi vài tuổi, nhưng trông lại như hơn bốn mươi rồi.”
Lộ Lạc có vẻ từng có ân oán gì với Ngô Mị Khanh, bèn chen lời: “Già rồi, sắc tàn lại xấu tính, cũng chỉ có tên quản sự họ Lý nhà họ Tô cái mặt như heo kia là vẫn hay ghé tìm nàng ta, chẳng hiểu nổi là vì cái gì nữa.”
Tuy thấy lời nàng có phần chua chát, nhưng Hải Triều cũng không khỏi lấy làm lạ. Lý Cát từng nói, vài ngày trước khi chết, Lý quản sự vẫn lén phái người mang tiền cho Ngô Mị Khanh, xem ra vẫn nên gặp trực tiếp mới rõ đầu đuôi, nàng nghĩ bụng rồi hỏi: “Không biết bao giờ nàng ấy tiện ra gặp một lát?”
Lộ Lạc nói: “Chuyện này dễ thôi, nô sẽ sai a hoàn đi gọi nàng.”
Hải Triều: “Không phải nàng ấy đang tiếp khách sao?”
Lộ Lạc hừ nhẹ một tiếng: “Khách gì mà khách, là tên tiểu bạch kiểm nàng bao nuôi đấy chứ. Ngoài gã họ Lý kia ra, ai mà còn coi trọng nàng…”
Phong Lai ho nhẹ hai tiếng, Lộ Lạc chẳng buồn để ý, hiển nhiên đã ngà ngà say, lời lẽ chẳng còn chừng mực: “Nói ra mới thấy lạ, nàng ta khá dư dả, chưa biết chừng còn giàu hơn cả mấy kẻ giả vờ thanh cao nữa.”
Nói xong, nàng quay sang: “Hai vị lang quân chờ một lát, nô sẽ sai người đi gọi nàng ta ngay.”
Vừa nói vừa gọi: “Bình nhi, Bình nhi! Tới đây, làm giúp tỷ một chuyện…”
A hoàn tên gọi “Bình nhi” lĩnh mệnh đi xuống lầu, chẳng bao lâu lại quay về: “Bẩm nương tử, Hồ nương tử ngủ say, trong phòng yên lặng không một tiếng, gõ cửa mãi mà chẳng thấy động tĩnh gì.”
Lộ Lạc lập tức nhíu mày dựng ngược mày liễu: “Còn cho mặt mũi nữa chứ, gọi nàng ra hầu quý khách mà còn ra vẻ! Thật là…”
Nàng quay sang Bình nhi quát: “Đi đến chỗ mẹ nuôi lấy chìa khóa mở cửa, dù phải kéo cũng phải kéo nàng ta ra đây!”
Hải Triều định nói không cần, nhưng chưa kịp mở miệng, Lộ Lạc đã đẩy a hoàn một cái: “Đi nhanh đi! Nếu nàng ta dám làm khó ngươi, về đây nói với tỷ, tỷ lột da nàng ta cho mà xem!”
Chưa đầy một lát sau, dưới lầu bỗng truyền đến một tiếng thét chói tai.
Mấy người đều giật mình, Hải Triều vô thức đặt tay lên chuôi kiếm gỗ đào được bọc lụa bên hông.
Phong Lai khẽ nói: “Hình như là tiếng của Bình nhi.”
Lời còn chưa dứt, đã nghe tiếng nữ tử la lớn: “Mẹ nuôi mau tới! Mẹ nuôi mau tới! Có chuyện rồi! Có người chết rồi!”
Lộ Lạc biến sắc: “Là Bình nhi!”
Hải Triều liền cầm kiếm gỗ, bật người đứng dậy: “Chúng ta xuống xem.”
Lương Dạ cũng lập tức đứng lên.
Hai người trước sau bước xuống lầu, Phong Lai và Lộ Lạc ngơ ngác bám theo sau.
Trên lầu là mấy gian phòng xây bao quanh một tiểu viện, phòng của Ngô Mị Khanh là một gian nhỏ ở dãy phía sau, rèm trúc vén cao, cửa gỗ khép hờ.
Trước cửa đã có không ít người xúm lại, kẻ xem náo nhiệt là kỹ nữ, kẻ ngáp ngắn ngáp dài là kỹ nam và khách làng chơi say xỉn, son phấn, rượu nồng, mùi thịt thối bắt đầu phân hủy hòa quyện lại, nồng nặc đến nghẹt thở.
Kỹ nữ và kỹ nam đều nhón chân thò đầu vào trong, Lộ Lạc miệng không ngừng gọi “Tránh ra, tránh ra”, chen lấn mở đường, kéo theo mấy người len đến cửa phòng.
Trông thấy Bình nhi đang ngồi xổm bên cửa, khóc nức nở, bên cạnh là tú bà Vân Dung mặt mày hoang mang rối loạn.
Gần cửa, mùi thịt sống thối rữa càng nồng nặc.
Hải Triều hỏi: “Xảy ra chuyện gì?”
Vân Dung nhíu mày, có vẻ còn đang do dự có nên để khách biết chuyện hay không.
“Có người chết sao?” Hải Triều lại hỏi, rồi chỉ vào Lương Dạ, “Hắn là quan sai.”
Câu ấy cũng chẳng hẳn là giả.
Vân Dung lập tức như tìm được chỗ dựa: “A di đà Phật! A di đà Phật! Làm phiền lang quân rồi…”
Lương Dạ nói: “Đuổi hết người vây quanh đi, đóng cửa viện lại. Lập tức cho người đi báo quan.”
Vân Dung bèn gọi hai tên kỹ nam khỏe mạnh đuổi đám đông, còn mình đứng chặn ở cửa, chỉ để Lộ Lạc ở lại bên cạnh.
Chẳng mấy chốc, đám người đã tản đi. Lương Dạ quay sang Hải Triều nói: “Ta vào xem là được, nàng chờ bên ngoài.”
Hải Triều có phần sờ sợ, nhưng lại không muốn tỏ ra yếu thế: “Chỉ là thi thể thôi mà, chẳng phải ta chưa từng thấy, có gì mà sợ?”
Nói rồi cứng đầu đi theo vào.
Nhưng vừa thấy rõ tình cảnh trong phòng, nàng lập tức thấy da đầu tê dại, ruột gan trào lên, suýt chút nữa thì nôn tại chỗ.
***