Mộng hồi Tây Châu – Chương 175

Chương 175: Cô Hoạch Ca (42)

***

Hải Triều bấu chặt lấy hai mắt cá chân của Lâm Tam Lang, cảm nhận cơn gió mang theo hương cỏ cây thổi qua má, trước mắt là một mảng xanh biếc mượt mà như nhỏ nước, bên tai tiếng gió rít gào, chẳng bao lâu sau đã nghe thấy Lâm Tam Lang nói: “Đến rồi.”

Tiếng chim nhỏ vừa dứt thì lập tức bổ nhào xuống, lơ lửng dừng lại cách mặt đất không xa.

Hải Triều buông tay, nhẹ nhàng đáp xuống đất, hai chân vừa chạm đất đạp lên một thảm cỏ mềm mại.

Nàng đảo mắt nhìn quanh, thấy mình đang ở trên một sườn đồi phủ đầy cỏ, phía dưới là một thung lũng tĩnh lặng, khắp núi đầy rẫy những loài hoa dại không rõ tên, dưới ánh mặt trời trông như một tấm thảm gấm lấp lánh ánh sáng, một con suối nhỏ lấp loáng ánh bạc uốn lượn chảy qua thung lũng, như thể thêu thêm một dải lụa bạc lên tấm gấm ấy.

Mấy chục đứa trẻ như những chú cừu vui tươi, ba đứa một nhóm, hai đứa một tốp tản ra khắp thung lũng, có đứa xắn quần bắt cá trong suối, có đứa giương cung săn thỏ rừng, hươu rừng trong rừng cây, có đứa trèo cây hái trái rừng, đám nhỏ tuổi hơn thì hái nấm, nhổ măng non, hoặc nhặt củi khô, thỉnh thoảng còn dừng lại hái vài bông hoa dại, hoặc đuổi theo những con thú nhỏ đang nô đùa nhảy nhót.

Hải Triều vốn tưởng rằng lên núi có thể sẽ nhìn thấy điều gì đó kỳ bí, không ngờ lại thấy được khung cảnh như chốn đào nguyên.

Nàng vừa thấy nhẹ nhõm, lại vừa có chút thất vọng. Nàng cảm thấy cây cỏ độc giấu trong vạt áo đang nặng trĩu kéo xuống, dĩ nhiên, đó chỉ là ảo giác của nàng bởi nó chỉ là một cọng cỏ khô nhẹ như không mà thôi.

Lâm Tam Lang sau khi đặt nàng xuống thì lùi ra xa tám trượng, Hải Triều hiểu rõ đó là vì nó không muốn để đồng bọn phát hiện ra chính nó là người đưa nàng tới, việc đặt nàng ở một nơi cách xa đám đông như sườn đồi này, cũng là vì nguyên nhân ấy.

Đáng tiếc là nó không đạt được như ý, chẳng bao lâu đã có đứa trẻ tinh mắt phát hiện ra hai người cùng đến thung lũng, gọi đồng bạn, chỉ trỏ bàn tán.

Chỉ trong chốc lát, gần như tất cả bọn trẻ đều nhìn về phía nàng.

Không khí tự nhiên dễ chịu ban nãy lập tức tan biến, bọn trẻ căng cứng cả người, vừa căng thẳng vừa cảnh giác nhìn nàng, có vài đứa còn thì thầm to nhỏ.

Hải Triều hiểu, không chỉ vì nàng là người ngoài, mà còn vì nàng đã làm bị thương mắt của “A Nhã”.

Từ nhỏ nàng đã là thủ lĩnh của đám trẻ trong thôn, khi lớn lên cũng rất được chúng quý mến, đây là lần đầu tiên nàng nếm trải cảm giác bị xa lánh.

Nàng cắn răng, cứng đầu cứng cổ đi xuống thung lũng theo sườn dốc.

Năm sáu đứa trẻ lớn nhanh chóng vây lấy nàng.

Hải Triều quét mắt nhìn lướt qua mấy đứa, ánh mắt dừng lại trên người một tiểu cô nương cao gầy.

Đứa bé ấy trông chừng mười ba mười bốn tuổi, làn da ngăm đen, thân hình gầy guộc, sau lưng đeo một cây cung gỗ trắc, bên hông treo túi đựng tên may bằng da thú, rõ ràng là thủ lĩnh trong số bọn chúng.

Đứa bé nhìn nàng một lúc, cau mày hỏi: “Ngươi đến đây làm gì?”

Một thiếu niên nhỏ hơn một chút thì trừng mắt nhìn Lâm Tam Lang, chất vấn: “Sao lại đưa nó đến đây? A Nhã đã nói là để nó ở yên trong nhà, không được chạy lung tung!”

Lâm Tam Lang tủi thân đến suýt khóc, gương mặt vốn đã lộn xộn giờ càng như sắp vỡ vụn: “Ta… ta không muốn… nó nói không muốn ăn không…muốn hỗ trợ.”

Thiếu niên kia búng ngón tay lên trán nó một cái: “Nó nói gì ngươi cũng tin à? Ngươi ngốc thế!”

Dù Lâm Tam Lang đã biến thành một yêu quái nửa người nửa chim, nhưng đám trẻ kia dường như chẳng hề sợ nó chút nào, cũng không nể mặt gì, cứ đối đãi như một người bạn bình thường.

“Nhưng… nhưng, ở Bi Điền Phường…”

Hải Triều ngắt lời Lâm Tam Lang đang nói năng lộn xộn, quay sang mấy đứa trẻ lớn nói: “Không phải lỗi của nó, là ta ép nó đưa ta đến.”

“Là ngươi đánh bị thương A Nhã?” Cô bé ngăm đen trừng mắt nhìn Hải Triều.

Hải Triều gật đầu: “Nó bắt bạn ta, ta mới đánh lại.”

Đúng lúc ấy, một giọng nói rụt rè vang lên sau lưng: “Đứa bé ấy không phải người xấu…”

Hải Triều quay lại, phát hiện người bênh vực cho mình lại chính là đứa bé ngốc nghếch ở Bi Điền Phường, tên A Thủy.

Nàng mỉm cười biết ơn với A Thủy, A Thủy lập tức cúi gằm mặt xuống.

Đứa bé ngăm đen cau mày trầm tư một hồi: “Dù cho ngươi đánh A Nhã là có lý do, nhưng tại sao không ngoan ngoãn ở trong phòng, mà lại chạy đến tận đây?”

Thiếu niên trợn mắt dữ tợn quát: “Ngươi đến đây có phải định làm chuyện xấu không?”

Mấy đứa trẻ lớn khác cũng bu lại: “Nói đi, rốt cuộc ngươi định làm gì?”

Hải Triều vô thức muốn chối cãi nhưng lập tức nhớ ra, quả thật nàng đến là để làm chuyện xấu. Lần này mục đích của nàng còn ác độc hơn, là muốn đưa A Nhã của bọn họ vào chỗ chết.

“Ở mãi trong nhà chán quá, nên ta muốn sang xem thử các ngươi đang chơi gì.”

Dùng lý do muốn giúp đỡ để qua mặt Lâm Tam Lang và A Thủy thì còn tạm được, nhưng mấy đứa trẻ trước mặt rõ ràng tinh khôn hơn, không dễ bị gạt thế.

Quả nhiên, lý do này nghe có vẻ hợp lý hơn chút, mấy đứa trẻ đưa mắt nhìn nhau, ai nấy đều lộ vẻ nửa tin nửa ngờ.

Đứa bé da ngăm gọi cả đám kéo ra một bên.

Hải Triều vểnh tai lắng nghe, nghe thấy bọn chúng xì xào bàn bạc:

“Sao giờ? Có đuổi nó về không?” 

“Cho ai đưa nó về đây?” 

“Lâm Tam Lang ngốc thế, chốc nữa lại bị nó lừa cho mà xem…” 

“A Khê lại không có đây, đám có cánh chỉ có mỗi hai đứa nó, những người khác mà đi thì mất công lắm, A Nha còn đang chờ thuốc nữa cơ…” 

“Hay cứ để nó ở lại đi, chúng ta trông chừng nó, đừng để nó làm chuyện xấu là được……”

Tiểu cô nương da ngăm quay lại trước mặt Hải Triều: “Hôm nay bỏ qua cho ngươi một lần, không bắt ngươi quay về, nhưng ngươi phải ngoan ngoãn ở lại làm việc với bọn ta, không được gây rối.”

Hải Triều bị đôi mắt sáng trong đen trắng rõ ràng ấy nhìn chằm chằm khiến tim hơi run, lập tức dời ánh mắt, khẽ gật đầu: “Ừm.”

Đứa bé quay sang liếc nhìn A Thủy: “Ngươi quen A Thủy, hôm nay cứ theo nó, giúp nó làm việc, không được chạy lung tung.”

Hải Triều thấy A Thủy đang ngồi xổm trên đất, trong tay cầm một con dao găm nhỏ đào một bụi cỏ, loài cỏ đó trông kỳ lạ, thân lá mang sắc lam tím, trên đỉnh mọc hai phiến lá to tròn, là loài cỏ nàng chưa từng thấy ở thế giới bên ngoài.

Không biết là rau dại hay thảo dược… Trong lòng nàng hơi động, gật đầu đáp: “Được.”

A Thủy ngẩn người ngẩng đầu lên: “Ta…. ta”

Đứa bé da ngăm chẳng buồn nghe nó  nói gì, cắt ngang luôn: “Tí nữa bọn ta phải vào rừng săn hươu, không rảnh trông nó, các ngươi trông chừng kỹ vào, đừng để nó gây rắc rối.”

A Thủy có vẻ hơi khó xử, nhưng đứa bé kia căn bản không cho nó cơ hội phản bác nên đành gật đầu đồng ý.

Hải Triều bước lại gần A Thủy, nhỏ giọng hỏi: “Họ nhắc đến A Khê, là tỷ tỷ của ngươi à?”

A Thủy gật đầu.

“Tỷ ấy không có ở đây sao? Đi đâu rồi?”

A Thủy mím môi không đáp, Hải Triều nghiêng đầu nhìn vào mắt nó: “Sao vậy? Không tiện nói?”

A Thủy khẽ lắc đầu: “Không phải…. Tỷ ấy đang trông chừng ở cửa động của A Nhã.”

“Ồ……” Hải Triều hơi chột dạ, “A Nhã đỡ hơn chưa?”

“A Nhã đang dưỡng thương, uống thuốc vào thì phải ngủ liền mấy canh giờ,
phải có người canh chừng.”

“Tỷ tỷ của ngươi với Lâm Tam Lang…” Hải Triều dè dặt gợi chuyện, thấy sắc mặt A Thủy vẫn bình thường mới dám tiếp lời: “Bọn họ biến thành như vậy rồi… còn lớn lên được nữa không?”

“Tất nhiên là không rồi.” A Thủy cười khúc khích, như đang chê nàng ngốc, “Họ chết rồi mà, người chết thì sao lớn được nữa?”

Hải Triều vốn tưởng cái chết của hai người đó là điều cấm kỵ không nên nhắc tới, nhưng xem ra không phải vậy.

Nghĩ lại cũng phải, trong lòng lũ trẻ, chuyện sinh lão bệnh tử vốn không phải điều quá hệ trọng.

“Vậy còn những người khác thì sao?” Hải Triều lại hỏi.

“Những người khác? Ý ngươi là gì?”

Hải Triều đưa mắt nhìn quanh: “Ta thấy ở đây toàn là trẻ con, nhưng rồi các ngươi cũng sẽ lớn lên chứ? Người lớn thì đi đâu hết rồi?”

A Thủy tròn mắt ngơ ngác, có vẻ như chưa từng nghĩ đến vấn đề này bao giờ.

Hải Triều ngẫm tính lại, lần đầu tiên Trịnh phu nhân gặp Cô Hoạch Điểu là khi còn nhỏ, đến nay đã hơn hai mươi năm. Trong hai năm gần đây, trẻ mất tích khoảng chừng hơn mười đứa, vậy những đứa trẻ khác có lẽ đã đến đây từ sớm hơn, nếu đúng như thế thì hẳn phải có vài đứa nay đã trưởng thành rồi mới phải.

Nhưng Hải Triều lại không thấy một ai như vậy.

Trong lòng nàng bỗng trào lên một ý nghĩ đáng sợ, Cô Hoạch Điểu quả thật yêu thương trẻ con, nhưng khi trẻ đã trưởng thành thì… chưa chắc…

Thế nhưng lời kế tiếp của A Thủy lập tức đánh tan ý nghĩ ấy trong đầu nàng: “Bọn ta đều sẽ không lớn lên đâu, mãi mãi là trẻ con thôi.”

“Không lớn lên?” Một luồng ý lạnh bò dọc sống lưng Hải Triều, “Lẽ nào các ngươi cũng…”

Chữ “chết” nghẹn trong cổ họng nàng không thốt ra được.

Lần này A Thủy lại đoán được nàng muốn nói gì, cười lắc đầu: “Bọn ta tất nhiên là người sống rồi, người chết đâu cần ăn cơm nữa chứ!”

Hai má Hải Triều nóng bừng, nàng đã quên khuấy mất điều đó: “Nhưng tại sao lại không lớn lên?”

“Ta cũng không biết nữa,” A Thủy chỉ tay về phía một đứa bé, “Thấy không? Đó là A Hương, tỷ ấy là đứa trẻ đầu tiên đến đây, ngay cả chính tỷ ấy cũng chẳng nhớ mình đến từ lúc nào rồi.”

Hải Triều nhìn đứa bé kia, chỉ trạc mười ba mười bốn tuổi là cùng, trong lòng dâng lên một cảm giác ngổn ngang: “Mãi mãi không thể trưởng thành, cũng không thể về nhà, các ngươi không buồn sao?”

A Thủy ngạc nhiên nhìn nàng: “Tại sao phải buồn? Lớn lên thì có gì hay?”

Là người trưởng thành, Hải Triều cũng không thể nói rõ lớn lên rốt cuộc có tốt hay không, nhưng bảo nàng mãi là trẻ con, e rằng nàng cũng chẳng chịu nổi.

Nàng nghĩ một lúc rồi nói: “Nhưng ngươi chưa từng lớn lên, làm sao biết cảm giác trưởng thành là thế nào?”

A Thủy lại cười: “Ta không muốn lớn lên đâu, chỉ cần mãi mãi được ở bên A tỷ, A Nhã và cả những người bạn này là đủ rồi.”

Một đứa bé trông chừng mười một, mười hai tuổi đi tới: “Không phải là không thể lớn lên, chỉ là không thể thành người lớn. Chỉ có những đứa trẻ không muốn trưởng thành mới đến được nơi này.”

Hải Triều nhìn về phía cô bé, thấy nàng có vẻ hơi lúng túng: “Ta không cố ý nghe lén đâu, chỉ là vô tình nghe được hai người trò chuyện thôi.”

Đây là đứa trẻ đầu tiên ngoài A Thủy chủ động thân thiện với nàng. Thấy dáng vẻ dịu dàng ôn hòa của nó, Hải Triều bất giác nhớ đến Lục Uyển Anh.

Không biết giờ Lục tỷ tỷ ra sao rồi, còn có cả Lương Dạ nữa.

Nghĩ đến Lương Dạ, tim Hải Triều như bị ai bóp chặt, nhói đau từng nhịp.

Nàng đè nén những suy nghĩ rối ren trong lòng, mỉm cười với đứa bé: “Ngươi tên gì vậy?”

A Thủy vội chen lời: “Đây là A Huyên tỷ tỷ đó!”

Rồi ngẩng đầu nhìn thiếu nữ: “A Huyên tỷ tỷ, hôm nay dạy muội vẽ thỏ nhỏ nữa nhé?”

Thiếu nữ mỉm cười hiền hòa: “Nếu muội học được năm chữ mới, tỷ sẽ dạy muội vẽ.”

Dường như nhận ra vẻ kinh ngạc trong mắt Hải Triều, thiếu nữ giải thích: “Nơi này là các ca ca tỷ tỷ lớn hơn dạy mấy đứa nhỏ, truyền cho nhau những gì mình biết.”

Dáng vẻ tiểu cô nương cúi đầu mỉm cười cũng rất giống Lục Uyển Anh: “Ta chẳng có bản lĩnh gì khác, chỉ biết nhận vài chữ mà thôi.”

A Thủy chen vào: “A Huyên tỷ tỷ biết nhiều lắm ấy! Chữ nào cũng biết, còn biết vẽ nữa! Tỷ ấy còn từng vẽ chân dung cho A Nhã nữa cơ……”

Thiếu nữ bị khen đến ngại ngùng, xoa đầu nàng một cái: “Giỏ sau lưng muội còn trống đấy, phải tranh thủ đi thôi.”

A Thủy “a” một tiếng, lập tức cúi đầu tiếp tục đào cỏ.

Hải Triều tò mò hỏi: “Mấy thứ này là gì vậy? Rau dại à?”

A Thủy bật cười: “Đây là thuốc đắng đấy! Dùng để làm thuốc viên cho A Nhã! A Nhã uống thuốc sẽ mau chóng khỏe lại thôi.”

Trong lòng Hải Triều khẽ động, bất giác sờ tay vào đám cỏ độc trong ngực áo: “Ta cũng giúp một tay nhé, loại cỏ nào là thuốc? Phân biệt ra sao?”

A Thủy đáp: “Trong thung lũng này, cỏ nào trông đẹp mắt thì đều là thuốc của A Nhã cả.”

A Huyên vạch đám cỏ cao, nhổ ra một cây thảo dược có bông hồng nhạt ở ngọn, bỏ vào giỏ sau lưng A Thủy: “Thung lũng này tràn đầy linh khí, thảo mộc mọc ra đều có thể giúp A Nha hồi phục.”

Nàng ngập ngừng một chút: “Có điều, ở sườn râm phía đối diện rừng cây mọc toàn là cỏ độc, không thể hái. Nhưng nếu ngươi đi cùng bọn ta thì sẽ không lỡ tay hái nhầm đâu.”

“Nếu trong thuốc hoàn mà lẫn phải cỏ độc thì sao?” Hải Triều hỏi.

Lần đầu tiên trong mắt A Huyên lộ ra vẻ cảnh giác, nhưng A Thủy thì chẳng có tâm cơ, thản nhiên đáp: “Sẽ khiến A Nhã chết đấy!”

“Không phải tất cả cỏ độc đều…” A Huyên không nói tiếp, “Dù sao thì ngươi cứ đi theo bọn ta hái thuốc trong thung lũng này là được, sẽ không sao đâu.”

Hải Triều gật đầu, cùng họ bắt đầu thu hái dược thảo.

Mắt nàng tinh, tay chân lại nhanh nhẹn, sức lực cũng không nhỏ, có nàng tham gia, giỏ sau lưng của A Thủy chẳng mấy chốc đã đầy một nửa.

Vừa làm việc, nàng vừa hỏi A Huyên dăm ba câu về Cô Hoạch Điểu và thế giới này.

Tuy A Huyên không nói rõ ràng, nhưng chẳng mấy chốc Hải Triều đã hiểu, những đứa trẻ đến nơi này hoặc là không có nhà để về, hoặc là bị người thân ngược đãi, có nhà còn chẳng bằng không, cho nên rất ít đứa trẻ muốn rời đi.

“Nếu có ai đổi ý, muốn rời khỏi nơi này thì sao?” Hải Triều hỏi, “Bao nhiêu đứa trẻ như vậy, chẳng lẽ chưa từng có tiền lệ?”

A Huyên lắc đầu, trầm ngâm đáp: “Hình như từng có một hai người, muốn trở về thế giới ban đầu.”

Tim Hải Triều chợt nhói lên: “Sau đó họ thế nào rồi?”

“Thì trở về thôi,” A Huyên nói, “Chắc là đã lớn thành người lớn rồi đó.”

Hải Triều nhướng mày: “Ngươi chưa từng rời khỏi nơi này, làm sao biết được?”

A Huyên mỉm cười: “Là A Nhã nói với muội mà.”

Hải Triều nói: “Nó nói thì chắc gì đã là thật? Sao mọi người ai cũng tin nó như vậy?”

“Vì đó là A Nhã mà.” A Huyên đáp, “Ngươi cứ sống cùng A Nhã vài ngày là sẽ hiểu, tỷ ấy chưa từng ép ai ở lại cả… có lẽ trừ ngươi và tiểu lang quân họ Trịnh… nhưng cũng là vì có nguyên do.”

Hải Triều nói: “Vậy nếu A Nhã không còn nữa thì…”

Sắc mặt A Huyên lập tức thay đổi, mày nhíu chặt lại.

“Ta chỉ nói là nếu thôi…”

“Nếu không còn A Nhã…” Sắc mặt thiếu nữ trắng bệch, không kìm được bắt đầu run rẩy, “Thì e rằng thế giới này cũng chẳng còn tồn tại… rất nhiều người trong bọn ta sẽ không sống nổi nữa.”

“Thế giới này không còn, chẳng phải là sẽ quay về thế giới cũ sao?” Hải Triều hỏi.

“Có lẽ vậy.” A Huyên dường như chẳng mấy bận tâm, “Với bọn ta mà nói, thì có khác gì xuống địa ngục đâu?”

Nàng từ từ xắn tay áo lên, trên cổ tay thon nhỏ là một vết sẹo xấu xí như dòi bò.

Hải Triều sững sờ không nói nên lời.

“Nếu không phải A Nhã mang ta đến đây, thì ta đã chết từ hai năm trước rồi.” A Huyên cười khẽ, đầy bi thương.

Hải Triều không hỏi nguyên do, nhưng nếu khiến một đứa trẻ mới hơn mười tuổi phải đi đến đường cùng, muốn tự vẫn, thì cuộc sống khi xưa của nó quả thực chẳng khác gì địa ngục.

A Huyên buông tay áo xuống: “Những đứa trẻ ở đây, phần lớn đều giống ta.”

Nàng nhìn sang A Thủy ở không xa: “Đứa bé này là ngoại lệ, muội ấy quá nhớ tỷ tỷ mình, A Nha nghe được tâm nguyện ấy nên mới đưa muội ấy tới đây.”

“A Nhã có thể nghe thấy tâm nguyện của trẻ con?” Hải Triều hỏi.

“Chỉ những ước nguyện mãnh liệt và khẩn thiết nhất.” A Huyên đáp.

“Hồi đó ngươi… xin lỗi, ta không nên hỏi chuyện ấy.”

“Không sao,” A Huyên nói, “Khi ấy tuy ta đã ôm tâm niệm phải chết, nhưng trong lòng thật ra vẫn muốn sống, muội khát khao có ai đó đến cứu mình, thế là A Nhã đến.”

Đúng lúc ấy, có người từ xa gọi: “A Huyên!”

A Huyên vội đứng dậy, đặt bó dược thảo trong tay vào giỏ của A Thủy, bất đắc dĩ nói với Hải Triều: “Họ gọi ta đi giúp rồi, nếu có gì không hiểu, cứ hỏi A Thủy nhé.”

Vừa bước đi được hai bước, nàng lại quay đầu lại nói: “Ta biết là ngươi đã hiểu lầm A Nhã nên mới khiến tỷ ấy bị thương, ta sẽ giải thích với những người khác, nếu ai đối xử không tốt với ngươi, cứ nói với ta là được.”

Nghe những lời ấy, tim Hải Triều lại càng trĩu xuống, nghĩ đến việc mình sắp làm thì chỉ thấy hổ thẹn đến mức không dám ngẩng mặt.

Sau khi A Huyên rời đi, nàng tiếp tục giúp A Thủy hái thảo dược. Chưa đợi mặt trời lên đến đỉnh đầu, hai người đã chất đầy những chiếc giỏ tre nhỏ.

Có lẽ là nhờ A Huyên ra mặt hòa giải, nửa ngày trôi qua, thái độ của lũ trẻ với nàng cũng đã ôn hòa hơn nhiều.

“Thế này là đủ rồi,” A Thủy xách giỏ sau lưng, vui vẻ nói, “Hôm nay hái được nhiều thế này, nhất định bọn họ sẽ cho ta cùng tham gia chế thuốc!”

Hải Triều đã sớm dò hỏi, biết rằng chỗ dược thảo cuối cùng sẽ được tập hợp lại, trộn với nếp và mật ong, giã nhuyễn thành viên, rồi do đám trẻ lớn mang đến cho A Nha dùng.

Lũ trẻ làm việc vốn chẳng mấy cẩn thận, hơn nữa cả ngày hôm nay nàng vẫn kè kè bên A Thủy, nên chẳng ai nghi ngờ trên người nàng có giấu cỏ độc. Chỉ cần đem thứ cỏ độc mà Trịnh tiểu lang đưa cho nàng bóp vụn, bỏ vào trong giỏ của A Thủy, thì tám chín phần chắc A Nha sẽ nuốt phải.

Hải Triều nghĩ vậy, trong lòng toát đầy mồ hôi lạnh.

“Vọng Hải Triều, ngươi đang nghĩ gì vậy?” A Thủy hỏi.

Hải Triều hoàn hồn, phát hiện đứa bé đỏ bừng cả mặt: “Sao thế?”

“Ta bảo ngươi trông giùm cái giỏ, ta vào rừng… có chút việc.”

Hải Triều hiểu ngay: “Ồ! Mau đi đi!”

A Thủy chạy thẳng vào trong rừng.

Hải Triều đưa mắt nhìn quanh, thấy lũ trẻ ai nấy đều bận rộn, chẳng ai chú ý đến nàng.

Nàng hít một hơi thật sâu, thò tay vào ngực áo, lấy ra gói vải, mở khăn.

Thân cỏ màu bạc toát ra luồng khí âm u chẳng lành, giống như những khớp xương trắng bệch của xác chết.

Chỉ cần trộn nó vào, nói không chừng sẽ thoát được nơi này… Dù chưa thể chắc chắn, nhưng nàng không còn cách nào khác, chỉ có thể thử.

Nàng gói lại trong khăn, bóp nát cỏ độc.

Thảo dược đã phơi khô, giòn vụn, rất dễ nghiền thành mảnh nhỏ.

Chỉ cần nhẹ nhàng rắc vào bên trong là xong.

Nhưng chuyện đơn giản thế, nàng lại chần chừ mãi chẳng làm nổi.

Thứ trong tay nặng tựa ngàn cân.

Cho dù nó chưa từng làm điều ác thì đã sao? Cô Hoạch Điểu chính là yêu quái trong bí cảnh này. Trên lụa cổ đã ghi rõ: muốn rời khỏi bí cảnh, tất phải giết chết yêu quái.

Thời gian chẳng còn nhiều nữa.

Nếu chỉ liên quan đến nàng thì thôi cũng được, nhưng còn có Lương Dạ cùng những người khác nữa…

Hải Triều ra sức thuyết phục bản thân, mở khăn, nhắm ngay giỏ tre…

Không được, nàng vẫn không thể xuống tay.

Nàng không thể vì bản thân và đồng bạn mà lại hãm hại một yêu quái vô tội.

Nàng vò chặt khăn thành một cục, gói lấy một hòn đá, buộc mấy nút rồi ném thật mạnh về phía khu rừng u tối.

Chẳng bao lâu sau, A Thủy quay trở lại, bàn tay nhỏ ướt sũng vì vừa rửa qua khe suối.

Nó kinh ngạc nhìn Hải Triều: “Vọng Hải Triều, sao ngươi lại khóc vậy?”

Lúc này Hải Triều mới sực nhận ra trên mặt mình đầy nước mắt, vội vàng lau qua loa: “Không có gì, chỉ là gió cát thổi thôi.”

Ngay khi ấy, từ phía sau vang lên một giọng lười biếng: “Chuột con, đúng là vô dụng.”

Hải Triều quay phắt lại, kinh ngạc nhìn thiếu niên sắc mặt u ám: “Sao ngươi lại ở đây?”

“Ta muốn đến thì đến, ai nhốt được ta.” Trịnh tiểu lang tiếc nuối lắc đầu: “Khó khăn lắm ta mới kiếm được thứ ấy, vậy mà ngươi lại vứt đi, đúng là hỏng việc.”

Hải Triều trừng mắt: “Ngươi đã ra được, thì hẳn cũng có cách tự mình…”

“Đúng thế,” Trịnh tiểu lang nói dửng dưng, “Nhưng ta không muốn.”

“Ngươi không sợ ta thật sự…” Hải Triều liếc nhìn A Thủy đang tròn mắt hiếu kỳ theo dõi, chẳng thốt được hai chữ “hạ độc”.

Trịnh tiểu lang khẽ cười nhạt: “Ta sớm biết ngươi không dám.”

“Ta không phải không dám!” Hải Triều phản bác, “Ta…”

“Ngươi không phải không dám, mà là một kẻ nhân từ do dự.”

Hải Triều: “Ngươi chẳng phải là kẻ xấu sao? Sao không thấy ngươi quyết đoán hơn ta?”

“Bởi vì thứ cỏ ấy vốn không giết nổi điểu yêu.” Trịnh tiểu lang cười nham hiểm.

Hải Triều ngẩn người, rồi lập tức nhận ra mình chẳng thể phân biệt đâu thật đâu giả trong lời hắn. Dù gốc cỏ đó có phải cỏ độc hay không, thì giờ cũng đã bị nàng ném đi rồi.

Tiếp tục đôi co với đứa bé chết tiệt này cũng vô ích.

Nàng ngồi phịch xuống, nhớ đến Lương Dạ cùng mọi người, nỗi bi thương dâng lên từng đợt từng đợt, cuồn cuộn không dứt.

“Chuột con.” Trịnh tiểu lang đi đến phía sau, bóp nhẹ mái tóc nàng, “Ngươi chẳng phải vẫn luôn rất kiên cường sao? Giờ đã buông bỏ rồi à?”

“Còn có thể làm gì nữa?” Hải Triều nói.

“Biết đâu sẽ có chuyển cơ.” Trịnh tiểu lang nói.

“Ngươi biết gì sao?” Hải Triều không tin hắn, nhưng trong lòng lại dâng lên một tia hy vọng mỏng manh.

Trịnh tiểu lang khẽ lắc đầu: “Đúng là một con chuột ngốc.”

Lời vừa dứt, trên không bỗng truyền đến một tiếng chim hót vang dội.

Hải Triều ngẩng đầu, thấy một mảng bóng tối dài như mây sà xuống từ trên núi, đang bay thẳng về phía thung lũng.

***

Chương tiếp theo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *