Chương 155: Cô Hoạch Ca (23)
***
Trình gia vốn làm nghề buôn bán đồ cổ, việc ngụy tạo một bản độ điệp cũng chẳng phải chuyện khó.
Đàm Viễn tìm được một tấm lụa cũ chất liệu gần giống, thêm bút mực, dao khắc các loại. Trình Hàn Lân dựa theo bản độ điệp thật mà dùng khoai ngọt khắc mấy con dấu giả, lại bắt chước thể chữ gốc viết xong văn tự, in dấu đóng ấn, thế là một bản độ điệp có thể giả loạn thành thật được ra đời.
Hắn lại dựa theo lời miêu tả của Đàm Viễn, ngụy tạo công văn quan phủ. Nếu đặt song song cùng bản thật tất sẽ lộ ra sơ hở, song giờ đường về thành đã bị cắt đứt, tin tức chẳng thông, dối gạt một phen với quản sự và Trịnh phu nhân thì không khó.
Trình Hàn Lân vốn quen tay, làm việc gọn gàng mau lẹ, kể cả thời gian tìm vật liệu cũng chỉ hết một canh giờ. Đàm Viễn thán phục đến mức khó tả, nhìn sư đệ một lúc lâu, môi mấp máy song rốt cuộc không hỏi thêm gì.
Hải Triều nhấc tấm lụa lên, “phù phù” thổi cho khô vết mực và dấu ấn, rồi khẽ nói với Trình Hàn Lân: “Những món cổ vật nhà huynh bán… chẳng lẽ cũng lẫn hàng giả vào?”
“Hải Triều muội muội chớ nói thế.” Trình Hàn Lân vội đáp, “Tiệm nhà ta tuyệt không bán đồ giả, buôn bán quang minh, chẳng lừa già dối trẻ. Chỉ là đã ở trong nghề này, ít nhiều cũng phải biết mấy thủ đoạn ấy, chính là cái gọi là biết mình biết người…”
Chờ văn thư khô ráo, cố ý bôi thêm vài vết bẩn, dấu mài, lại càng trông tự nhiên.
Một “quan sai” dẫn theo hai đứa nhỏ thì quá chướng mắt, mấy người thương lượng một hồi, quyết định để Đàm Viễn cùng Lương Dạ đi hỏi han, còn Hải Triều và Trình Hàn Lân tiếp tục tản đi khắp nơi dò tin.
Đàm Viễn và Lương Dạ trước tiên tìm đến Trịnh quản sự nói rõ ý định. Quản sự dĩ nhiên sinh nghi, Đàm Viễn đưa độ điệp cùng công văn quan phủ cho ông ta xem. Lão quản sự chau mày ngắm nghía thật lâu, dè dặt nói: “Việc này lão nô chẳng dám tự quyết, còn phải bẩm lại với nương tử.”
Lại nghi hoặc nhìn Lương Dạ: “Đứa nhỏ này là…”
Đàm Viễn liền nhẹ nhàng đáp: “Ta cần một người ghi chép, nó biết chữ nghĩa, lanh lợi sáng dạ, lại không liên can gì đến việc này, nên mới đưa theo.”
Trịnh quản sự vẻ bán tín bán nghi, song cũng không nói thêm, chỉ quay vào bẩm báo với phu nhân.
Đợi trong chốc lát thì quản sự trở ra: “Đại nương vừa uống thuốc vẫn còn nghỉ, nương tử mời chư vị trước vào trong đường nói chuyện.”
Đàm Viễn và Lương Dạ nhìn nhau gật đầu: “Gặp phu nhân trước cũng tốt, chúng ta vừa khéo có việc muốn thỉnh giáo.” Nói rồi theo quản sự bước vào.
Trịnh phu nhân đã đổi sang thường phục, khuôn mặt tái nhợt càng làm đôi mắt sưng đỏ thêm nổi bật. Đáng lẽ là dung nhan quá mức bi thương khiến người ta xót xa, song vì nửa khuôn mặt bị bỏng, lại trở nên quỷ dị kỳ lạ, như thể yêu quái từ trong bức họa bước ra nhân thế.
Bà được a hoàn tên Bách Trạc đỡ đứng lên, yểu điệu hành lễ, chậm rãi làm mấy động tác tay. Đôi ngón tay trắng mảnh cũng trở nên nặng nề, như thấm đẫm nỗi đau buồn.
Bách Trạc thay bà cất lời: “Lão nô đã nói rõ việc của lang quân, quả phụ mắt mù chẳng nhận ra người tài, nhiều bề thất lễ, mong được thứ tội.”
Đàm Viễn vội khách sáo: “Phu nhân quá lời, xin hãy nén bi thương.”
Trịnh phu nhân thoáng liếc nhìn Lương Dạ, hơi nghiêng đầu, lộ vẻ lấy làm lạ.
Chưa đợi bà ra hiệu, Bách Trạc đã hiểu ý, hỏi thay: “Đứa nhỏ này chẳng phải vẫn hầu hạ bên tiểu lang quân sao? Sao lại ở đây?”
Đàm Viễn bèn nhắc lại lời vừa giải thích với quản sự.
Lương Dạ tiếp lời: “Tiểu lang quân hôm nay chưa hề gọi nô đến hầu hạ.”
Tỳ nữ lập tức tỏ vẻ đã hiểu, buột miệng: “Công tử không thích ngươi? Cũng chẳng lạ, vốn là người do nương tử chọn …”
Trịnh phu nhân liếc nhìn nàng, nàng lập tức im bặt.
Trịnh phu nhân lại làm mấy động tác tay, Bách Trạc quay sang một a hoàn khác đứng bên, nói: “Mị Vu, nương tử bảo ngươi đi gọi tiểu lang quân, mời ngài ấy đến cùng thương nghị hậu sự của lang quân, sao giờ vẫn chưa thấy?”
A hoàn tên Mị Vu có vẻ ấm ức, liền tuôn một tràng: “Hồi bẩm nương tử, nô tỳ chẳng dám chậm trễ, lập tức chạy đi. Thư đồng nói tiểu lang quân tối qua trúng gió lạnh, vẫn ngủ trong phòng, chẳng cho ai quấy rầy. Nô tỳ nói chuyện này hệ trọng kinh thiên, tất phải cho tiểu lang quân biết. Thư đồng ấy miễn cưỡng mới đưa nô tỳ đến cửa phòng.”
Nàng hổn hển rồi tiếp: “Hắn bắt nô tỳ đứng ngoài chờ, chính hắn cũng chẳng dám vào. Chỉ cách rèm mà bẩm, tiểu lang quân mãi mới đáp một câu ‘biết rồi’, bảo nô tỳ quay lại, nói lát nữa sẽ mặc áo ra. Cứ như chuyện xảy ra chẳng phải là việc liên quan đến thân phụ mình vậy.”
“Thứ cho nô tỳ nhiều lời, thiên hạ này đâu có kẻ làm con như thế…”
Trịnh phu nhân đưa tay ngăn lại, nàng ta mới uất ức nuốt hết lời oán hận trở vào.
Đàm Viễn trầm ngâm vuốt cằm, trong lòng nghĩ: trong viện này, từ chủ nhân cho tới hạ nhân, chẳng ai thật sự ưa vị Trịnh tiểu lang kia.
Trịnh phu nhân lại làm thủ thế dặn dò: “Ngươi đi thêm một chuyến, xem tiểu lang quân có tới hay chưa. Nếu còn ở trong viện, thì mời thêm lần nữa, nói rõ với hắn rằng việc này hệ trọng, dẫu cho hắn có oán hận gì với kế mẫu như ta, thì lúc này cũng chẳng phải là lúc giận dỗi, xin hãy lấy đại cục làm trọng.”
Tỳ nữ lĩnh mệnh rời đi. Chờ nàng vừa ngoài, Trịnh phu nhân lại quay đầu về phía Đàm Viễn, tiếp tục làm thủ thế.
“Lang quân đột nhiên quy tiên, đúng lúc cầu bị lũ cuốn gãy, thiếp thân thật sự không biết xoay sở thế nào, may nhờ có công tử tương trợ. Không biết sau khi tra nghiệm thi thể, công tử có thể cho phép thiếp thân sớm lo liệu việc nhập liệm di cốt cho lang quân chăng? Trời nóng nực như vậy, cứ để vậy e rằng không ổn.”
Đàm Viễn gật đầu: “Phu nhân chớ lo, tuy tại hạ chẳng phải ngỗ tác, song đối với việc này cũng có ít nhiều kinh nghiệm. Đợi sau khi ta tra xét xong, viết văn thư là Trịnh lang quân có thể nhập liệm.” Hắn dừng lại một chút, rồi nói tiếp: “Chỉ là, trước hết tại hạ phải tra rõ nguyên nhân cái chết của Trịnh lang quân.”
Trịnh phu nhân hơi nhướng mày, tỏ vẻ ngạc nhiên, làm liền một chuỗi thủ thế, tốc độ còn nhanh hơn vừa rồi.
Tỳ nữ liền thay lời: “Lang quân chẳng phải bị yêu quái hại chết sao? Công tử đã xem qua thi thể rồi, vết thương kia làm sao giống như do người gây ra, chẳng lẽ còn có nghi vấn gì nữa?”
“Những vết thương ấy đích thực chẳng phải do người làm ra.” Đàm Viễn nói, “Nhưng trong án này vẫn còn chỗ khó bề lý giải, cần nhờ phu nhân hỗ trợ.”
Trịnh phu nhân gật đầu: “Công tử cứ hỏi, thiếp tất sẽ biết gì nói nấy.”
Đàm Viễn cảm tạ, rồi mở lời thẳng thắn: “Phu nhân có biết vì sao Trịnh lang quân lại ở trong phòng Đại Nương Tử không?”
Trịnh phu nhân khẽ giãn mày, như thể sớm đoán được hắn sẽ hỏi vậy, thong thả làm thủ thế: “Công tử là đến tra xét vụ án trẻ con mất tích, ắt hẳn cũng từng nghe lời đồn về ‘Cô Hoạch Điểu’.”
Đàm Viễn gật đầu: “Ở Bi Điền Phường liên tiếp có hai trẻ mất mạng, mất tích, cũng đều liên quan đến lời đồn đó.”
Trịnh phu nhân tiếp lời: “Vậy chẳng hay công tử có biết, vì sao cả nhà chúng ta phải vội vã rời Kiến Nghiệp, lánh tới chùa trên núi Hội Kê?”
“Chẳng lẽ cũng là bởi lời đồn kia?” Đàm Viễn giả vờ không biết, lộ vẻ kinh ngạc.
Trịnh phu nhân khẽ gật đầu, tỳ nữ thay lời giải thích: “Không giấu gì công tử, lời đồn về Cô Hoạch Điểu ở Kiến Nghiệp rộ lên dữ dội, khiến lòng người hoang mang. Mấy hôm trước, bà vú bất ngờ phát hiện trên người tiểu thư có ba vết máu, lang quân nói phải đưa cả nhà lánh nạn lên núi Hội Kê. Trong chùa có Phật Tổ phù hộ, biết đâu có thể giúp tiểu thư thoát kiếp nạn này.”
Đàm Viễn hỏi: “Là vị tiểu thư nào?”
“Là trưởng nữ,” Trịnh phu nhân khẽ cười chua chát, “Nào ngờ vừa đặt chân đến Hội Kê, lại nghe tin Bi Điền Phường có trẻ nhỏ gặp nạn. Khi ấy lang quân đã muốn lập tức quay về Kiến Nghiệp… Tất cả đều là lỗi của thiếp… Nếu không, biết đâu lang quân đã chẳng gặp họa…”
Bà cúi thấp đầu, hai tay buông xuống đặt trên gối, như thể thương tâm đến nỗi chẳng thể nói thêm lời nào.
Bách Trạc vội khuyên nhủ: “Phu nhân đừng tự trách, ai cũng chẳng ngờ lại xảy ra chuyện như thế. Phu nhân cũng chỉ lo mấy vị tiểu chủ nhân đi đường xa mệt nhọc, nhất là Nhị tiểu thư còn nhỏ, Đại tiểu thư thì thân thể yếu ớt…”
Trịnh phu nhân dùng khăn chấm khóe mắt ươn ướt, khoát tay, rồi tiếp tục làm thủ thế:
“Sau khi Bi Điền Phường xảy ra vụ mất tích thứ hai, lang quân biết chỗ này chẳng thể nấn ná lâu, nhưng tiếc thay cầu đã bị mưa lớn cuốn sập, dẫu có nóng lòng cũng chỉ đành chờ đợi. Chúng ta chỉ còn biết cầu xin Phật Tổ phù hộ, mong đám trẻ không gặp nạn.
“Nào ngờ hôm qua, bà vú lại phát hiện trên áo lót của đại tiểu thư thêm ba vết máu. Việc này hệ trọng, thiếp không dám che giấu nên đi bẩm với lang quân. Lang quân bèn khăng khăng muốn tự mình cầm đao canh giữ suốt đêm ngoài cửa.”
Đàm Viễn cau mày: “Quý phủ có nhiều thuộc hạ, gia phó như vậy, Trịnh lang quân vốn là một văn sĩ, cớ sao lại phải đích thân canh giữ?”
Trịnh phu nhân mỉm cười nhạt, làm thủ thế nhẹ nhàng: “Công tử hẳn chưa lập gia thất?”
Đàm Viễn khẽ cười: “Phu nhân quả thật mắt tinh như đuốc.”
Trịnh phu nhân tiếp: “Trong mắt người ngoài thì thấy dư thừa, nhưng chỉ bậc làm cha làm mẹ mới hiểu, có những việc không thể giao cho người khác, chỉ có thể tự mình gánh lấy.” Bà ngừng một chốc, lại làm thủ thế: “Huống chi, tiểu nữ này đối với lang quân lại càng đặc biệt. Thứ nhất, lang quân và tiên phu nhân vốn tình thâm như chim liền cánh, mà trưởng nữ dung mạo lại giống hệt thân mẫu, cho nên được sủng ái hơn phần nào; thứ hai, lang quân tự thấy mình có lỗi với trưởng nữ rất nhiều, bởi thế đối với con bé, đừng nói lấy thân ngăn hiểm, dẫu là vào dầu sôi lửa bỏng cũng chẳng nửa phần do dự.”
Ánh mắt Đàm Viễn thoáng động: “Vì cớ gì Trịnh lang quân lại cảm thấy áy náy với tiểu thư nhà mình?”
“Công tử chưa rõ, tiểu nữ vốn chẳng phải bẩm sinh mù lòa. Ngự y cũng từng nói mắt đứa bé chẳng có tật gì, nguyên do không nhìn thấy, phần nhiều là do tâm bệnh.”
“Ồ?” Đàm Viễn lấy làm kinh ngạc, “Chẳng lẽ tâm bệnh ấy lại liên quan đến Trịnh lang quân?”
Trịnh phu nhân chậm rãi lắc đầu: “Không phải. Tiểu nữ chưa từng nói ra nguyên nhân, chỉ là lang quân làm cha, tự cho rằng mình thất trách, bởi vậy mới không ngừng tự trách, hết lòng bù đắp.”
“Vậy ra Trịnh lang quân là một người cha tốt?” Đàm Viễn hỏi.
Hai tay Trịnh phu nhân khựng lại, một lúc lâu sau mới tiếp tục thủ thế: “Lang quân có lòng muốn làm phụ thân tốt, song vốn thiên tính phóng khoáng, chẳng màng tục sự, việc gì cũng thuận hứng mà làm, không câu nệ tiểu tiết, thường ra ngoài bầu bạn, đàm đạo, một đi là mấy ngày liền.” Bà dừng một thoáng, lại ra hiệu: “Hơn nữa, lang quân với tiên phu nhân tình cảm sâu nặng, khi nàng vừa khuất núi, trong mấy năm đầu, lang quân thương tâm đến mức mất cả tiết độ. Mỗi lần nhìn thấy dung nhan trưởng nữ tựa như thê tử đã mất, thì thống khổ chẳng thể chịu nổi, bởi thế những năm ấy cố tình né tránh. Mãi sau mới khá hơn đôi chút, nhưng khi ấy đã muộn. Nữ nhi mất mẫu thân, lại thêm phụ thân cố tình xa lánh, có lẽ chính từ lúc ấy mà sinh ra căn bệnh này.”
Đàm Viễn gật đầu: “Ra là vậy. Vậy chẳng hay đôi mắt tiểu thư là từ khi nào bắt đầu không nhìn thấy?”
Ánh mắt Trịnh phu nhân thoáng dao động: “Ước chừng là hai năm trước.”
“Hai năm trước?” Đàm Viễn khẽ nhướng mày.
Ngay cả Lương Dạ, vốn đang giả bộ ghi chép, cũng ngừng bút.
“Theo tại hạ được biết, hai năm trước Trịnh lang quân và phu nhân từng dẫn các hài tử đến Chiêu Minh Tự tránh nóng…”
Trịnh phu nhân khẽ vuốt mái tóc mai, bình thản làm thủ thế: “Đúng vậy, chính là khi ấy tiểu nữ gặp phải biến cố, từ đó mới thành mù lòa.”
Đàm Viễn hỏi: “Là biến cố thế nào?”
Trịnh phu nhân do dự chốc lát: “Chuyện ấy không liên quan tới tình hình hiện tại, hơn nữa còn hệ đến thanh danh của tiểu nữ, nếu như…”
Đàm Viễn liền ngắt lời: “Phu nhân không nói, tại hạ cũng khó phán đoán. Xin phu nhân yên tâm, ta chỉ vì điều tra vụ án, tuyệt đối không tung lời ra ngoài.”
Trịnh phu nhân cầm chặt khăn lụa, băn khoăn một hồi, cuối cùng mới hạ quyết tâm, cho lui hết thảy tỳ nữ, chỉ giữ lại một mình Bách Trạc.
“Thật ra, hai năm trước tiểu nữ từng lạc mất trong núi Hội Kê, qua một đêm mới tìm thấy.”
Lần này quả thực Đàm Viễn hơi giật mình: “Tiểu thư xuất hành tất có tỳ nữ đi kèm, sao lại vô cớ lạc mất trong núi?”
Trịnh phu nhân lắc đầu, tiếp tục làm thủ thế: “Đây cũng là điều khiến lang quân và thiếp nghi hoặc chẳng hiểu. Tiểu nữ vốn chịu ảnh hưởng từ phụ thân, từ nhỏ đã ưa cảnh lâm tuyền, lại giỏi họa vẽ. Mỗi lần đến núi Hội Kê đều rất vui mừng. Chỉ cần trời trong nắng đẹp thì sẽ dẫn theo hai nha hoàn thân cận, đem bút mực giấy vẽ ra núi, họa lại sơn xuyên thắng cảnh.
“Hôm ấy cũng chẳng khác ngày thường. Hai nha hoàn nói tiểu thư chọn một nơi non xanh nước biếc, ngồi trên tảng đá bên suối để vẽ. Vẽ đến nửa chừng thì phát hiện hết màu lam, bèn sai một nha hoàn trở về lấy, chỉ còn một người ở lại bầu bạn. Kết quả khi nha hoàn kia quay lại chỗ cũ, bên suối…”
Người thì đã không thấy đâu nữa.
“Sau đó tìm lại được thế nào?” Đàm Viễn hỏi.
“Lúc ấy trưởng nữ đã sắp tròn mười tuổi, việc liên quan đến thanh danh, lang quân không muốn kinh động người ngoài, nên chỉ sai bọn thuộc hạ, gia nô mang từ Kiến Nghiệp đến đi khắp núi tìm. Tìm suốt một đêm vẫn không thấy, chúng ta đều tưởng dữ nhiều lành ít, không ngờ hôm sau trời sáng, trưởng nữ lại trở về. Đứa bé rét đến mức mặt mày tái xanh, may mà không bị thương tích gì.”
“Họ vì sao lại lạc? Đã đi đâu?”
“Tiểu nữ nói ban đầu vẫn chờ a hoàn kia trở lại bên bờ suối, nhưng chờ mãi chẳng thấy, mà nắng lại gắt, con bé không mang mũ che, nên mới vào rừng núi gần đó tránh nắng. Nào ngờ càng đi càng sâu, cuối cùng lạc mất lối cũ. Đến khi trời tối, sợ tìm đường sẽ gặp dã thú, nên chỉ dám ở nguyên chỗ cũ chờ sáng. Tuy là mùa hạ, nhưng đêm núi rừng vẫn lạnh, hai đứa trẻ ôm nhau mà sưởi, nhờ thế mới qua được một đêm.”
“Chỉ vậy thôi?” Đàm Viễn lộ vẻ nghi hoặc.
“Chúng ta cũng từng nghi có ẩn tình khác, nhưng tiểu nữ thế nào cũng khẳng định đó là sự thật.”
“Vậy nha hoàn đi cùng mất tích kia nói thế nào?”
Trịnh phu nhân khẽ rũ mắt: “Nàng ta… đã không còn sống mà trở về.”
Đàm Viễn kinh ngạc: “Nàng ta gặp chuyện gì?”
“Tiểu nữ nói khi qua suối, a hoàn kia sơ ý trượt chân, bị dòng xiết trong núi cuốn đi. Sau đó chúng ta sai người xuống hạ lưu tìm, quả nhiên tìm thấy thi thể ở bãi cát ven sông.”
Đàm Viễn chau mày, trầm ngâm một lát: “Lúc tiểu thư trở về, mắt đã không còn nhìn thấy rồi sao?”
Trịnh phu nhân gật đầu.
“Con bé đã không còn nhìn thấy, vậy làm thế nào một mình tìm được đường về?”
“Chúng ta cũng nghi ngờ, nhưng nó chỉ nói thực sự chẳng thấy gì cả. Hễ hỏi thêm đôi câu, nó sẽ òa khóc. Đại phu cũng đã thử dùng vật nhọn, kết luận rằng chứng mù lòa này tuyệt chẳng phải giả vờ.”
“Quả là một chuyện lạ…” Đàm Viễn lẩm bẩm, đồng thời ý vị sâu xa nhìn thoáng qua Lương Dạ.
Lương Dạ khẽ gật đầu, gần như khó ai nhận ra.
Đàm Viễn lại hỏi: “Không biết phu nhân có từng nghe, hai năm trước ở Bi Điền Phường từng có một bé gái chết đuối ở ao sau núi?”
“Chuyện này thiếp cũng từng nghe qua.” Trịnh phu nhân khẽ nhíu mày, hiện vẻ thương xót, mười ngón tay mảnh mai khẽ động, như cũng trĩu nặng sầu bi. “Đó là một đứa trẻ đáng thương, nghe nói bé gái mất tích gần đây chính là muội muội của nó? Thật quá đau xót…”
Bà như đột nhiên ý thức được điều gì, động tác trên tay bỗng nhanh hẳn: “Chẳng lẽ công tử cho rằng việc tiểu nữ mất tích có liên quan đến cái chết của bé gái kia?”
“Phu nhân nghĩ sao?”
Trịnh phu nhân quả quyết lắc đầu: “Hai chuyện cách nhau mấy ngày, thiếp dám chắc tuyệt không liên quan. Huống hồ cái chết của bé kia…”
“Không phải là tai nạn.” Lương Dạ bỗng cất lời.
Sắc mặt Trịnh phu nhân hiện vẻ kinh ngạc, bàn tay khựng lại giữa không trung.
Bách Trạc không nhịn được mà thốt lên: “Cái gì? Ngươi biết được điều gì sao?”
“Ta nghe đám trẻ ở Bi Điền Phường truyền nhau.” Lương Dạ đáp, “Nói rằng tỷ tỷ của A Thủy là bị người ta bóp chết.”
Bách Trạc hoảng hốt biến sắc: “Hoang đường! Các ngươi mấy đứa nhỏ này rốt cuộc nghe ai ăn nói bậy bạ thế?”
Lương Dạ lắc đầu: “Ta cũng chỉ nghe bọn họ truyền miệng, đại khái là nghe lỏm được từ miệng người lớn nào đó thôi.” Nói rồi lại cúi đầu, tiếp tục cắm cúi viết.
Đàm Viễn che miệng khẽ ho một tiếng, hỏi Trịnh phu nhân: “Lệnh ái đi lạc là trước, hay sau?”
“Là trước.”
Đàm Viễn liếc nhìn Lương Dạ, rồi xoay lại chủ đề: “Quay về chuyện hôm nay đi. Ai là người đầu tiên phát hiện thi thể của Trịnh lang quân?”
“Như thường lệ, sáng sớm a hoàn vào phòng hầu tiểu nữ rửa mặt, lại thấy lang quân ngã trong vũng máu, còn tiểu nữ thì ngất lịm ngay trước giường, cánh tay có một vết cào.”
Đàm Viễn kinh ngạc: “Lệnh ái cũng bị thương ư?”
Trịnh phu nhân gật đầu: “May mắn chỉ là kinh hãi mà ngất, đã mời y nữ bắt mạch, lại cho uống thang thuốc, giờ không còn trở ngại lớn.”
“Trong viện cũng có không ít nô bộc, sao không thấy ai xông vào bảo hộ đại tiểu thư?”
Phu nhân nhanh chóng làm thủ thế: “Quản sự cũng đã hỏi qua. Họ nói chẳng hiểu sao đều ngủ mê cả. Đám nô bộc, gia đinh này vốn được lang quân và quản sự lựa chọn kỹ càng để bảo vệ tiểu thư, tuyệt chẳng phải hạng sơ suất, thế mà đêm qua toàn bộ lại mê man, thực khó bề giải thích.” Bà nghĩ ngợi, lại bổ sung thêm: “Huống hồ lang quân cùng Đại Nương Tử bị yêu vật tập kích, tất nhiên phải kêu cứu. Dù bọn họ có ngủ mê, cũng ắt phải có kẻ nghe thấy động tĩnh.”
“Bởi thế ta đoán, có lẽ yêu quái kia thi pháp cổ quái nào đó khiến bọn họ hôn mê.”
Một tỳ nữ chen lời: “Có người nói, trước khi ngủ mê dường như nghe thấy khúc ca quái dị, chẳng lẽ chính là vì nghe khúc đó mà ngất xỉu?”
Vẻ mặt Đàm Viễn vẫn bình lặng, chỉ gật nhẹ: “Cũng không phải không có khả năng.”
Hắn nhìn chằm chằm Trịnh phu nhân: “Tại hạ mạo muội, xin được thỉnh vấn phu nhân vài việc.”
Như cảm giác thấy trong giọng hắn có điều khác lạ, sắc mặt Trịnh phu nhân hơi biến đổi: “Chuyện gì?”
“Việc riêng.”
Lời Đàm Viễn còn chưa dứt, Bách Trạc đã vội vàng định cất tiếng, nhưng Trịnh phu nhân đưa tay ngăn lại, ra hiệu.
Đàm Viễn quay sang nói với Bách Trạc: “Đây là chuyện riêng của chủ nhân, ngươi hãy tạm tránh đi.”
“Nhưng nếu nô tỳ không ở đây thì…”
Trịnh phu nhân khoát tay, lại làm thêm mấy thủ thế thật nhanh.
Bách Trạc ngập ngừng một lát, cuối cùng vẫn gật đầu: “Nô tỳ sẽ chuẩn bị bút mực cho nương tử.”
Nói rồi đi lấy giấy bút nghiên mực, quen tay mài sẵn, lại không khỏi đưa mắt lo lắng nhìn phu nhân một cái: “Nô tỳ sẽ đợi ở hành lang ngoài cửa. Nếu nương tử có việc, rung chuông gọi nô tỳ là được.”
Vừa lui ra vừa thì thầm dặn: “Lang quân mới gặp chuyện, nương tử đau lòng đến mức vừa rồi còn hộc máu. Vốn đã có bệnh trong tim mạch, đại phu cũng bảo vì quá thương tâm mà tổn hại đến tâm mạch, đến giờ vẫn chưa hồi phục. Ngài đừng lỡ lời, nếu khiến nương tử động đến bệnh cũ, mà xảy ra việc gì thì…”
Chưa kịp nói hết, Đàm Viễn đã “rầm” một tiếng đóng chặt cửa.
Hắn nhìn thẳng vào Trịnh phu nhân, nói: “Vậy thì tại hạ xin nói thẳng. Khi còn ở Kiến Nghiệp, tại hạ từng nghe qua vài lời đồn về phu nhân thuở còn trong khuê phòng… là những lời không mấy tốt đẹp. Tại hạ muốn biết, đó rốt cuộc chỉ là lời đồn hay là có thực?”
Trịnh phu nhân cắn chặt môi, chút sắc máu còn sót lại trên gương mặt dần dần biến mất.
Bà vội vã viết một hàng chữ: [Chuyện này có liên quan gì đến vụ án?]
Đàm Viễn đáp: “Có liên quan. Nhưng nếu phu nhân không tiện tiết lộ thì…”
Trịnh phu nhân lắc đầu, cầm bút lên, nhưng hồi lâu vẫn chẳng hạ xuống được.
Bà siết chặt lấy bút, cổ tay khẽ run, khớp ngón tay vì dùng sức quá độ mà trắng bệch.
Qua một lúc lâu, dường như cuối cùng bà cũng đã hạ quyết tâm.
Ngòi bút rơi xuống trang giấy, viết ra một chữ [Thật], mạnh mẽ đến nỗi gần như xuyên qua tờ giấy.
Đàm Viễn lặng im trong chốc lát: “Vậy ra, phu nhân quả thật từng có tư tình với tiên sinh dạy học của Cố gia?”
[Đúng.]
“Ông ta vốn đã có thê thất, còn phu nhân khi ấy vẫn chưa đủ tuổi cài trâm, phải không?”
[Đúng.]
“Có thể mạo muội hỏi một câu, vì sao lại như thế?”
Trịnh phu nhân như nghe được một lời trào phúng, khẽ cong môi cười, ngòi bút phiêu dật, phóng khoáng viết xuống một hàng:
[Chuyện phong nguyệt, cần gì lý do?]
Bà lại tự giễu mà mỉm cười, đưa tay chỉ vào gương mặt mình.
Đàm Viễn hiểu được hàm ý của bà: tiên sinh kia không hề chê bai dung mạo của bà, có lẽ chỉ chừng ấy thôi, cũng đủ để khiến bà liều lĩnh như thiêu thân lao vào lửa.
[Công tử còn muốn biết điều gì?] – Trịnh phu nhân lại viết.
Sự thẳng thắn của bà trái lại khiến Đàm Viễn chần chừ, còn đang do dự, chợt bên ngoài vang lên tiếng bước chân gấp gáp, theo sau là giọng nữ nhân hổn hển:
“Mở cửa, mở cửa! Nô có việc muốn bẩm báo nương tử!”
Đàm Viễn và Lương Dạ thoáng nhìn nhau, vội đứng dậy mở cửa. Người xông vào chính là tỳ nữ Mị Vu, vừa nhận lệnh đến viện Trịnh tiểu lang truyền tin.
Trịnh phu nhân ngơ ngác nhìn a hoàn đột ngột xông vào, lập tức nhanh chóng ra hiệu.
Mị Vu vịn lấy khung cửa, gắng gượng hít một hơi thật sâu: “Trong viện tiểu lang quân… xảy ra chuyện rồi.”
Chưa đợi Trịnh phu nhân ra hiệu, Đàm Viễn đã vội hỏi: “Sao? Có phải tiểu lang quân đã gặp chuyện rồi không?”
“Tiểu… tiểu lang quân biến mất rồi…” Mị Vu thốt ra, “Không chỉ thế… trong phòng của ngài ấy còn có một người chết…”
Mọi người đều kinh hoàng.
“Là ai?!” Đàm Viễn chất vấn.
“Là Quách… Quách nương tử, Quách nương tử ở Bi Điền Phường.”
***