Chương 129: Ngọc mỹ nhân (Hoàn)
***
Xác phàm tầm thường khó mà đốt thành tro, nhưng thân thể Hoàng hậu có phù chú thêm vào, chẳng bao lâu đã hóa thành tro bụi, còn thi thể của hoàng đế vẫn vặn vẹo trong ngọn lửa tàn dư, mãi cho đến khi biến thành một cỗ thây cháy đen chẳng thể phân rõ diện mạo.
Hải Triều ngây người nhìn cảnh tượng trước mắt, thật lâu không thốt nên lời, cho đến khi có một bàn tay khẽ đặt lên vai nàng. Nàng quay đầu lại, chạm phải đôi mắt bình tĩnh mà thâm sâu của Lương Dạ.
Lương Dạ đưa cho nàng một tấm khăn lụa mềm, lúc này Hải Triều mới phát hiện bản thân không biết đã rơi lệ từ khi nào.
Nàng luống cuống lau nước mắt, chợt nhớ ra một việc: “Đúng rồi, Mã Đầu Nương!”
Tượng ở trên người Lương Dạ, vốn là để kịp thời thay nàng chiêu hồn.
Lương Dạ im lặng lấy bức tượng từ trong tay áo đưa cho nàng, Hải Triều siết chặt hai tay, gọi Mã Đầu Nương.
Mã Đầu Nương trợn đôi mắt hột đậu nhìn nàng một lượt: “Sao ngươi chưa chết?”
“Ta chưa chết ngươi rất thất vọng sao?” Hải Triều nói, “Bớt lảm nhảm, mau thay ta chiêu hồn của Hoàng hậu!”
Mã Đầu Nương bặm miệng, vừa định cất lời, lại bất ngờ chạm phải ánh mắt u lãnh của Lương Dạ, lập tức nuốt ngược câu nói, bắt đầu thi pháp.
Trong linh đường đóng kín cửa sổ cửa ngõ, khói tàn cùng mùi cháy khét lặng lẽ lan tràn, Hải Triều nóng ruột nhìn chằm chằm vào bức tượng, hận không thể dùng ánh mắt mà bào tróc ra từng lớp gỗ.
Ước chừng một nén nhang trôi qua, tượng mở mắt, thở ra một hơi nặng nề, lắc đầu: “Không chiêu được.”
Bàn tay đang siết chặt của Hải Triều dần buông lỏng. Dù trong lòng mơ hồ đã có dự liệu, nhưng thất vọng vẫn như dòng nước ào ạt tràn tới, nhấn chìm toàn thân nàng.
Cả linh đường đã ngập trong khói mờ, Hoàng hậu chết rồi, Tà linh cũng biến mất, song cánh cửa lửa thông ra thế giới hiện thực vẫn chưa hiện ra.
Lương Dạ nói: “Trước tiên ra ngoài đã.”
Hải Triều khẽ gật, đi đến cửa, gõ ba lượt, hai dài một ngắn, cứ thế ba lần.
Chốc lát sau, cánh cửa nặng nề được mở từ bên ngoài, ánh sáng ban mai cùng gió lạnh ùa vào linh đường, xua tan khói mù và mùi khét nồng nặc.
Một đội thị vệ đeo đao đứng bên ngoài. Đi đầu là thiếu niên người Hồ khoác cung cong trên vai, hông đeo ống tên, đôi mắt xanh biếc đặc biệt bắt mắt.
Nhìn thấy Hải Triều, ánh mắt hắn khẽ dao động, như có cơn gió mát thổi dậy sóng trên hồ xanh, gợn lên nụ cười trong trẻo.
Hải Triều nhận ra trong thoáng chốc ấy, trong mắt hắn có mừng rỡ, có nhẹ nhõm, duy chỉ không có ngạc nhiên.
Ngay sau đó, hắn lại trừng lớn mắt, lộ ra vẻ kinh ngạc cường điệu: “Công chúa, đã lâu không gặp!”
“Chưa tới hai canh giờ trước chúng ta mới gặp nhau.” Hải Triều nhắc nhở.
Thiếu niên khôi phục vẻ ngả ngớn thường ngày: “Người ta thường nói, một ngày không gặp ngỡ ba thu. Nếu vậy tính ra, nô đã bốn năm tháng chưa diện kiến công chúa rồi.”
Tâm tình Hải Triều vốn đang nặng nề, nghe câu bông đùa của hắn cũng thấy nhẹ nhõm đi phần nào.
Bích Lưu Ly lại nhìn về phía xác cháy vặn vẹo trên đất, vờ vĩnh kinh hãi: “Ôi! Đây là ai vậy?”
Hoàng đế tuy bị thiêu đen thui, song đai ngọc vàng bên hông cùng kim quan trên đầu vẫn còn, Hải Triều cảm thấy hắn diễn trò quả thật quá mức, có phần chướng mắt.
Lương Dạ liếc Bích Lưu Ly một cái, rồi quay sang mấy tên thị vệ tâm phúc mà hắn tuyển chọn: “Có thích khách ẩn trong linh cữu Cửu công chúa, lợi dụng tang lễ ám sát Thánh nhân. Công chúa cùng ta đã tại chỗ xử quyết thích khách, nhưng thương thế của Thánh nhân rất nặng, khó thể cứu vãn, chính là tình cảnh các ngươi đang thấy. Đã hiểu chứ?”
Đám thị vệ cúi đầu xưng vâng.
Lương Dạ lại dặn Bích Lưu Ly: “Ngươi đi thu dọn di thể của Thánh nhân. Thích khách đã bị thiêu thành tro, gom riêng tro bụi lại.”
Nụ cười của Bích Lưu Ly lập tức đông cứng, gương mặt tuấn tú nhăn nhúm như khổ qua, lẩm bẩm: “Lấy công báo thù riêng!”
Lương Dạ coi như không nghe thấy, cùng Hải Triều sóng vai bước ra linh đường.
Hải Triều đưa mắt nhìn sang trung đình trống trải, có chút muộn phiền: “Đám triều thần và cấm quân bên ngoài phải làm sao?”
Nàng vốn tưởng Tà linh diệt trừ, cửa lửa sẽ hiện ra, không ngờ vẫn còn phải dọn dẹp cục diện rối ren.
Lương Dạ nói: “Nàng qua tẩm điện nghỉ ngơi, những việc còn lại giao cho ta.”
Hải Triều được rảnh rang thì vui mừng, hơn nữa nàng vốn chẳng khéo ứng phó mấy chuyện này nên không khách khí, chỉ dặn: “Đừng quên hai cung nhân giúp Hoàng hậu trốn ra, thưởng hậu hình rồi cho họ xuất cung.”
Lương Dạ: “Ta biết rồi.”
Hải Triều chần chừ một chút, lại nói: “Ngươi cũng phải cẩn thận.”
Lương Dạ gật đầu, dẫn một đội thị vệ xuyên qua trung đình mà đi ra ngoài.
Đưa mắt tiễn hắn qua khỏi cửa cung, Hải Triều lại không lập tức sang tẩm điện, mà quay trở lại linh đường.
Bích Lưu Ly đang ngồi xổm trên đất, dùng chiếc bàn chải nhỏ quét tro, trên mặt buộc khăn lụa che mũi miệng. Nghe thấy tiếng bước chân, hắn ngoảnh đầu lại: “Công chúa sao lại quay lại rồi?”
Hải Triều: “Ngươi biết ta sẽ quay lại tìm ngươi.”
Bích Lưu Ly khẽ cong mày mắt, cười mỉm.
Hải Triều liếc nhìn đám thị vệ khác trong đường: “Nói chút chuyện riêng.”
Bích Lưu Ly đứng dậy, theo nàng đi đến góc hành lang phía sau vắng người, tháo khăn che mặt nhét vào ngực áo, rồi tựa người lên lan can: “Công chúa muốn hỏi gì?”
Hải Triều khẽ cắn môi: “Tại sao Hoàng hậu lại đột nhiên xuất hiện ở đây?”
Bích Lưu Ly tròn mắt, ra vẻ vô tội: “Nô ngay cả mặt Hoàng hậu còn chưa từng gặp, sao biết được?”
“Ngươi đừng giả bộ nữa!” Hải Triều nói, “Nếu không biết trước, sao bà ấy lại đúng lúc tiến vào? Hơn nữa, từ trong địa lao trốn ra, dọc đường phải gặp biết bao người, sao có thể thuận lợi như thế?”
Bích Lưu Ly ngẩng đầu nhìn trời: “Có lẽ là ý trời chăng.”
Hải Triều trừng mắt: “Thế ngươi giữ cửa ngoài, tại sao lại để bà ấy đi vào?”
Bích Lưu Ly: “Nô đột nhiên đau bụng chịu không nổi, đúng lúc đi nhà xí……”
Hải Triều chịu hết nổi, hỏi thẳng: “Có phải… là Lương Dạ đã làm gì không?”
Bích Lưu Ly khoanh tay, chớp mắt, thong dong nói: “Sao công chúa không tự mình đi hỏi Phò mã? Chẳng lẽ người… không dám?”
Hải Triều nghẹn lời, rồi hừ khẽ: “Không cần ngươi xen vào!”
Bích Lưu Ly cười nhạt: “Nếu thật sự là Phò mã an bài, vậy công chúa sẽ thế nào?”
Hải Triều không nói được gì. Chính bởi không biết phải làm sao, nàng mới vòng vo tới hỏi hắn.
“Công chúa sẽ oán trách Phò mã sao?”
Hải Triều tự vấn, chậm rãi lắc đầu. Nàng không tán đồng cách làm của Lương Dạ, nhưng lại chẳng thể trách hắn.
“Có một số chuyện, công chúa vẫn nên đích thân hỏi Phò mã đi. Phu thê với nhau, nào có điều gì không thể thẳng thắn nói rõ?” Thiếu niên như là trêu chọc, nhưng trong mắt lại không hề có ý cười. Dứt lời, hắn rút khăn che mặt ra từ ngực áo, buộc lại lên mặt, “Nô còn nhiều việc phải làm, xin cáo lui trước.”
Hải Triều vẫn đứng ngẩn tại chỗ, Bích Lưu Ly đã đi xa.
Nàng kéo chặt áo khoác, xoay người đi vào sân.
Lục Uyển Anh và Trình Hàn Lân đang chờ trong điện phía đông. Hải Triều vừa bước đến dưới hành lang, định vén rèm vào trong, thì từ trong phòng có người vội vã lao ra, suýt nữa va thẳng vào nàng.
Khuôn mặt kia có chút quen mắt, Hải Triều định thần nhìn kỹ mới nhớ ra đó là A Trân, thiếu nữ cùng Lục Uyển Anh vào cung, rồi được nàng mang về phủ công chúa.
A Trân kêu khẽ một tiếng “a”, hoảng hốt nói: “… Công chúa thứ tội…”
“Sao vậy?” Hải Triều hỏi.
A Trân đáp: “Lục tỷ tỷ đi sắc thuốc, bảo dân nữ trông chừng Trình công công… vừa rồi Trình công công đột nhiên cử động, như sắp tỉnh lại, dân nữ bèn vội vã chạy ra gọi người, lỡ va vào công chúa…”
Nghe vậy, Hải Triều vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, liên tục nói “không sao”, rồi bước nhanh vào phòng.
Trình Hàn Lân nằm trên giường, đầu quấn băng lụa trắng, gương mặt chỗ xanh chỗ tím. Hắn vẫn chưa mở mắt, nhưng hàng mi run lên kịch liệt, đôi môi khô nứt mấp máy, bàn tay đặt trên chăn như đang dò tìm thứ gì.
Hải Triều gọi tên hắn, nhưng hắn không hề đáp, trán toát mồ hôi, miệng không ngừng lẩm nhẩm điều gì đó. Hải Triều nghiêng người ghé tai lắng nghe, song vẫn chẳng phân biệt được lời hắn nói.
Đúng lúc ấy, Lục Uyển Anh bưng bát thuốc quay lại, thấy Hải Triều đã ở đó, lại thấy Trình Hàn Lân dường như sắp tỉnh, vui mừng đan lẫn nước mắt trào ra.
Hải Triều vội đón lấy bát thuốc từ tay nàng: “Lục tỷ tỷ đừng lo, chúng ta không phải vẫn bình an cả đây sao?”
Lục Uyển Anh nghẹn ngào không nói nên lời, chỉ liên tục gật đầu.
Khó khăn lắm mới trấn tĩnh lại, nàng bước đến giường bắt mạch cho Trình Hàn Lân, vui mừng thốt lên: “Mạch đã vững hơn nhiều, Trình công tử sẽ nhanh chóng tỉnh lại thôi…”
“…Sẽ tỉnh lại thôi.”
Nàng vừa nói, vừa thuần thục lấy khăn vải khẽ lau mồ hôi lạnh trên trán hắn, dịu giọng: “Trình công tử đang tìm gì sao? Muốn tìm thứ gì?”
Trình Hàn Lân phát ra tiếng khàn khàn yếu ớt.
Lục Uyển Anh cúi xuống, ghé tai gần miệng hắn, chau mày nói: “Gương… là muốn gương đồng sao?”
“Gương đồng, gương đồng…” Trình Hàn Lân bỗng mở mắt, ánh nhìn mơ hồ, hồi lâu mới tụ lại ở gương mặt Lục Uyển Anh: “Lục… Lục nương tử, đây là nơi nào?”
Hắn cố gắng chống khuỷu tay ngồi dậy, nhưng đã hai ngày nằm liệt, một hạt cơm cũng chưa ăn, mới gắng gượng nâng lên đôi chút thì kiệt sức, lại động đến vết thương, đau đến nhe răng trợn mắt.
“Trình công tử đừng cử động, đêm trước phòng ngươi phát hỏa, thân thể bị thương đến nay vẫn chưa lành.” Lục Uyển Anh vội vàng đỡ hắn nằm xuống, “Ngươi vừa nói muốn tìm gương đồng?”
“Đúng, ta phải tìm gương đồng…” Trình Hàn Lân bối rối sờ soạng trước ngực, “Gương đồng của ta đâu rồi?”
Lục Uyển Anh nói: “Chớ vội, ta đã giữ giúp ngươi rồi.”
Nàng từ trong tay áo lấy ra gương đồng được gói trong vải đỏ đưa cho hắn.
Gương đồng đã bị khói lửa hun ám, gương mặt vốn sáng loáng giờ trở nên mờ tối, Trình Hàn Lân vội dùng tay áo ra sức chà lau, vừa lau vừa gọi: “Nương nương, nương nương, người có ở đó không?”
Nhưng hắn dẫu có thế nào cũng không làm gương sáng trở lại, trong gương chỉ soi thấy một gương mặt tiều tụy thương tích chằng chịt.
Hắn nghẹn giọng một tiếng, bất chợt đưa tay đập lên trán, bật cười: “Ta sao lại ngốc thế, là chuyện đêm trước… nương nương tất nhiên đã quay về trong tượng rồi, đúng không?”
Hải Triều viền mắt đỏ lên: “Huynh yên tâm, Tống quý phi không sao cả, vừa rồi nàng đã rời đi rồi. Nàng muốn đi đầu thai chuyển thế, nhờ ta nói với huynh một tiếng, không kịp cùng huynh cáo biệt.”
“Người tốt như nương nương, kiếp sau ắt sẽ đầu thai ở một tốt, cả đời bình an vui vẻ.”
Trình Hàn Lân ngẩn ngơ nhìn bóng mình trong gương, gật gật đầu, giọng nói nhẹ nhàng mà kiên định: “Kiếp sau nàng nhất định sẽ thuận lợi cả đời, cùng người mình thương thành phu thê… phải không?”
“Đêm đó phát hỏa, Trình công tử hít khói mà hôn mê, có người kéo ngài ra ngoài hành lang.” Lục Uyển Anh hỏi: “Người đó là Tống quý phi?”
Trình Hàn Lân gật đầu: “Là nương nương đã liều hết sức cứu ta.”
Hôm đó, hắn ngã trên đất, đầu óc mờ mịt, thân thể bất động, nhưng vẫn mơ hồ cảm nhận được Tống quý phi vừa oán trách vừa gắng sức lôi kéo hắn. Hắn còn nhớ rõ, trước khi mất đi ý thức, nghe thấy tiếng nàng nói bên tai.
“Ta vốn tưởng… ta còn tưởng nàng…” Hắn lắp bắp, rồi không ngừng gật đầu, “May quá, may quá, không sao là tốt rồi…”
Một giọt nước nhỏ xuống gương đồng, chưa kịp lau đi thì lại thêm một giọt rơi nữa.
Lục Uyển Anh và Hải Triều chỉ lặng lẽ đứng bên, chờ hắn bình ổn tâm tình.
Rất lâu sau, hắn lấy vải đỏ bọc gương đồng lại, cẩn thận thu vào ngực, rồi quay sang Hải Triều: “Hải Triều muội muội và Tử Minh đã hàng phục yêu tà rồi chứ?”
Hải Triều gật đầu: “Nhờ có ám hiệu huynh để lại.”
Trình Hàn Lân nhoẻn miệng cười: “Khi ấy cấp bách không kịp viết chữ, chỉ đành dùng hạ sách này, ta đã biết Tử Minh nhất định sẽ đoán ra!”
“Tất nhiên rồi.” Hải Triều rũ mi mắt, “Hắn từ nhỏ đã thông tuệ.”
Lục Uyển Anh khẽ đặt tay lên mu bàn tay nàng, ánh mắt chan chứa lo lắng, dịu giọng hỏi: “Sao vậy?”
Hải Triều vội nở nụ cười: “Không sao đâu, Lục tỷ tỷ chớ lo.”
Trình Hàn Lân: “Đúng rồi, hai người đã làm thế nào để hàng phục Tà linh?”
Hải Triều bèn kể lại ngọn nguồn sự việc, chỉ giấu đi đoạn nàng vốn định lấy thân làm Nhân thắng cùng Tà linh đồng quy vu tận. Song Trình Hàn Lân nghe mà vẫn rùng mình.
“Những bí cảnh này hiểm ác nối tiếp nhau, lần sau có chuyện gì muội đừng giấu ta nữa.” Sắc mặt Lục Uyển Anh tái nhợt, nước mắt chực trào, nắm chặt tay Hải Triều, hiển nhiên đã đoán ra phần chân tướng nàng cố tình che lấp.
Trình Hàn Lân thì không chút nghi ngờ, chỉ cảm khái than thở, rồi hỏi: “Thế Tử Minh đi đâu rồi?”
Hải Triều nói: “Hắn phải đi giả chế chiếu thư, lại còn phải cùng quần thần bàn giao, lo liệu chuyện xuất tang, hạ táng hoàng đế… một đống việc lớn.”
“Yêu tà đã chết, Hỏa Môn đã xuất hiện chưa?” Trình Hàn Lân hỏi.
Hải Triều bất lực lắc đầu: “Vẫn chưa.”
Lục Uyển Anh liếc mắt nhìn ra ngoài cửa sổ:
“Có lẽ thời cơ chưa tới. Hai lần trước đều thuận theo tự nhiên, bí cảnh này hẳn cũng chẳng ngoại lệ.”
“Hoặc là còn có việc gì chưa làm.” Hải Triều nói, “Cho đến giờ chúng ta vẫn không biết bí cảnh này là chấp niệm của ai.”
Trình Hàn Lân: “Ta muốn đến trước linh đường của nương nương dâng nén hương.”
Thi thể của Tống quý phi vẫn còn đặt tại linh đường, chưa đưa đi an táng.
Trình Hàn Lân thở dài: “Nàng từng nói với ta, không muốn chôn trong hoàng lăng. Tuy chưa nói rõ, nhưng ý trong lời ấy, là muốn được an táng cùng Lâm công công.”
“Chuyện này dễ thôi,” Hải Triều nói, “Ta sẽ sai người âm thầm đưa thi thể Tống quý phi ra, tìm một nơi non xanh nước biếc cho họ.”
“Đa tạ.” Trình Hàn Lân nghẹn ngào.
Cho đến lúc mặt trời ngả tây, Lương Dạ bận rộn xử lý hậu sự từ tiền triều trở về, Hỏa Môn vẫn chưa hiện ra.
Nhìn sắc trời, vẻ mặt bốn người càng lúc càng trầm trọng.
“Rốt cuộc là thiếu sót điều gì? Bí cảnh này rốt cục là chấp niệm của ai?” Trình Hàn Lân yếu ớt nằm trên giường, lắc đầu than thở, “Tử Minh có manh mối gì không?”
Lương Dạ lắc đầu.
Trình Hàn Lân bất giác kêu lên một tiếng thê lương.
Đúng lúc này, Bích Lưu Ly ôm một hòm gỗ tử đàn lớn đi vào, phía sau còn theo một cung nhân sắc mặt tái nhợt, đôi mắt sưng đỏ.
Bích Lưu Ly đặt hòm lên bàn, nói với Hải Triều: “Công chúa, đây là cung nhân đã theo Hoàng hậu đào thoát. Nàng nói Hoàng hậu trước khi tuẫn tiết, đã dặn dò lại vài điều.”
Hải Triều lập tức hiểu, trong hòm ấy chính là tro cốt của Hoàng hậu.
Nàng gật đầu với cung nhân: “Ngươi nói đi.”
Cung nhân lo lắng vặn xoắn ngón tay: “Khởi bẩm công chúa điện hạ, nương nương căn dặn nô tỳ chuyển lời đến điện hạ, sau khi người… tiên du, xin điện hạ hãy rắc tro cốt người xuống dòng sông.”
Hải Triều khựng lại: “Tại sao?”
Nàng hiểu Hoàng hậu không muốn đồng huyệt cùng hoàng đế, nhưng lại không rõ vì sao bà không muốn được an táng dưới đất.
Người kia hoảng hốt lắc đầu: “Nô tỳ không biết, nương nương chỉ dặn như vậy… nô tỳ nào dám có nửa câu dối trá…”
Đã là di nguyện của Hoàng hậu, tất nhiên nên thành toàn.
Địa khí núi Lê ấm áp, sông núi dưới chân mùa đông cũng không kết băng. Hải Triều sai nội thị lấy bản đồ hành cung, chọn một dòng sông nhỏ trong veo, tĩnh lặng ở chân núi, lập tức lệnh chuẩn bị xe ngựa.
Khi đến bờ sông thì trời đã nhá nhem, Hải Triều mở nắp hòm, khẽ nói: “Nương nương, xin người an nghỉ.”
Đang định nghiêng tro bụi xuống nước, bỗng có cơn gió núi thổi tới, tro cốt tung bay, như tuyết mịn rơi xuống mặt sông.
Trên mặt sông tức thì nổi lên màn sương dày đặc, trong sương mờ ảo thấp thoáng hiện ra một bóng người, bước trên làn sóng cuộn mà đi đến gần.
Hải Triều thoạt đầu ngỡ là Tạ hoàng hậu, đến khi thân ảnh đó tiến lại gần, nàng mới sững sờ phát giác: mái tóc dài đến mắt cá, trắng toát như tuyết.
Nàng kinh sợ, còn chưa kịp định thần thì đao đã ra khỏi vỏ.
“Không cần sợ hãi như vậy.” Nữ tử khẽ cười, giọng yếu ớt, “Đa tạ các ngươi, hiện nay pháp lực ta đã cạn, không thể làm gì được nữa.”
Hải Triều đột nhiên không biết nên nói gì.
“Ta chỉ muốn cùng các ngươi đổi một vật.”
“Vật gì?” Hải Triều hỏi.
“Một bức họa.”
Hải Triều đang định hỏi bức họa nào, nhưng chưa kịp mở miệng thì đột ngột hiểu ra, quay đầu nhìn Lương Dạ.
Lương Dạ đã lấy từ trong tay áo ra tờ giấy gai từng nhận từ Trúc Tuệ hòa thượng: “Ngươi muốn là bức này?”
Tà Linh gật đầu.
Hải Triều: “Đây là…”
“Lão hòa thượng kia nói muốn vẽ cho ta một bức chân dung, vẽ xong ta còn chưa kịp nhìn, đã bị hắn lừa vào quan tài đá, từ đó đến nay vẫn luôn muốn xem thành ra thế nào…”
Tà Linh đón lấy bức họa, lặng lẽ ngắm một hồi, hàng mi trắng muốt khẽ run.
Trong thoáng chốc, Hải Triều còn tưởng nàng sẽ khóc.
Nhưng nàng chỉ khẽ cười một tiếng: “Cũng chẳng ra sao cả.”
Ngừng một lát, nàng nói tiếp: “Giờ đây lòng ta không còn vướng mắc, rốt cuộc được tự tại, cũng nên trở về rồi.”
Lời vừa dứt, nàng ném tờ giấy gai xuống sông, xoay người bước vào giữa dòng.
“Khoan đã.” Hải Triều gọi nàng, “Kẻ cuối cùng kéo Hoàng đế đồng quy vu tận, là ngươi hay Tạ Hoàng hậu?”
“Là ta.” Tà Linh đáp, “Tạ Hằng Vi đã cùng ta giao dịch, muốn ta giữ cho nam nhân kia bình an trọn đời. Nhưng nàng đã thất tín trước, ta đương nhiên phải lấy lại.”
Dứt lời, nàng lại xoay người, tiếp tục bước trên sóng tiến vào giữa sông.
Sương mù càng lúc càng dày, như một tấm chăn xám phủ kín mặt nước, bóng hình Tà Linh thì càng lúc càng nhạt, gần như tan biến.
Bên tai vang lên tiếng khóc của nữ tử, khởi đầu chỉ là tiếng nức nở khe khẽ, kế đó lại có thêm một giọng hòa vào, tiếng khóc càng nhiều, càng lớn, dần dần như có cả ngàn vạn người cùng khóc, bi thương thống khổ tột cùng, khiến tim người ta tự nhiên thắt lại.
Lúc này Hải Triều mới phát hiện, trên sông không phải là sương mù, mà là vô số hồn ảnh xám trắng.
Hồn ảnh theo tiếng khóc cùng bay về phía chân trời. Có một hồn ảnh dừng lại giữa không trung, quay đầu nhìn, Hải Triều thấy nàng ôm trong lòng một hài nhi bọc tã. Dù không rõ dung mạo, nhưng Hải Triều vô cớ lại cảm thấy đó chính là Tạ hoàng hậu.
Hồn ảnh ấy khẽ gật đầu, rồi quay người, hòa vào dòng hồn ảnh khác, biến mất nơi trời xa.
Mọi oán hận, đau khổ, dục vọng, chấp niệm, đều theo làn sương nhạt tan biến vô tung.
Mặt sông lại trở nên trong vắt, phản chiếu dãy núi mênh mông và hoàng hôn u tịch.
Tờ giấy cũ vàng úa như lá khô lềnh bềnh trên sóng, trên tranh, dung nhan nữ tử mày mắt hữu tình, tựa hồ đang nhìn kẻ ngoài tranh.
Làn sóng dịu dàng đưa tờ giấy vào sát bờ.
Trong lòng Hải Triều khẽ chấn động, nàng cúi người nhặt lấy, giấy trong tay dần hóa thành một viên châu trong ngần.
Tâm không vướng mắc, thì được đến tự tại.
Thì ra, bí cảnh này chính là chấp niệm của Tà Linh.
Hỏa Môn hiện ra ngay trước mắt.
Lục Uyển Anh dìu Trình Hàn Lân bước vào.
Hải Triều vừa bước một chân vào cửa, bỗng nghe phía sau có người gọi “Công chúa”.
Nàng quay đầu, thấy thiếu niên người Hồ đứng xa xa ngóng nhìn nàng.
“Ngươi sớm nên biết, ta vốn chẳng phải công chúa.” Nàng mỉm cười.
“Trong mắt ta, người vĩnh viễn là công chúa.” Thiếu niên nói, trong đôi mắt xanh biếc không có vẻ gì là trêu chọc.
Hải Triều không kìm được cũng thấy bi thương: “Ta phải về nhà rồi!”
Bích Lưu Ly mím môi thật chặt: “Nàng… còn sẽ trở lại chứ?”
Hải Triều cười với hắn, vẫy tay: “Bảo trọng!”
Nói rồi xoay người, biến mất trong cánh cửa rực lửa.
Đợi họ đi xa, Hỏa Môn hóa thành một tờ giấy rơi chậm rãi xuống.
【Thở ban sơ, Cao Tổ khởi binh, giao chiến tại Bác Xương, đại bại, cùng mười mấy kỵ sĩ liều chết phá vòng vây, chạy tới bờ Tích Thủy, bị thương nặng gần kiệt sức, được sư tăng trong chùa cứu. Trong chùa có linh, gọi là Tích phu nhân, xưng là thê tử của thần sông, ai gặp được sẽ toại nguyện. Cao Tổ thành tâm cầu nguyện, linh quả nhiên hiện, dung như mỹ nữ, da trắng tóc dài, y phục gần giống nhân gian, thoáng chốc lại biến mất. Chưa đầy mười ngày sau, tăng nhân trong chùa chết trong một đêm, Cao Tổ cùng tùy tùng cũng không biết tung tích. Chỉ còn một tiểu tăng độ mười một mười hai tuổi, vâng lệnh sư phụ vào thành mua tương đậu mà thoát chết, trở về mai táng, ở lại thủ ngôi chùa hoang hơn mười năm, rồi cũng qua đời.
Một giáp sau, đến thời Thuận Đế, hậu cung trong triều có linh quái gây họa, nhiều người bỏ mạng. Có cao tăng từ phương xa tới, nói đó chính là linh Trích Thủy, hóa thân từ oán khí người chết, phải lấy ngọc tạc tượng, mô phỏng dung nhan để trấn áp, quả nhiên mấy năm được yên. Về sau tượng ngọc vỡ tan, Thuận Đế muốn lấy ái nữ làm “nhân thắng” để trừ họa, cuối cùng không thành.
Năm sau, Thuận Đế băng hà. Kinh kỳ động đất, núi sập sông cạn, khi thì lũ, khi thì hạn, trộm cướp nổi dậy như ong vỡ tổ, thiên hạ đại loạn. Chưa đến mười năm, nhân số trong thiên hạ đã hao tổn gần một nửa.】
Những dòng chữ ở cuối trang dần dần biến đổi, chẳng bao lâu cùng với tờ giấy vàng úa kia đều biến mất không dấu tích.
【Thuở ban sơ, Cao Tổ khởi binh, giao chiến tại Bác Xương, đại bại, cùng mười mấy kỵ sĩ liều chết phá vòng vây, chạy tới bờ Tích Thủy, bị thương nặng gần kiệt sức, được sư tăng trong chùa cứu. Trong chùa có linh, gọi là Tích phu nhân, xưng là thê tử của thần sông, ai gặp được sẽ toại nguyện. Cao Tổ thành tâm cầu nguyện, linh quả nhiên hiện, dung như mỹ nữ, da trắng tóc dài, y phục gần giống nhân gian, thoáng chốc lại biến mất. Chưa đầy mười ngày sau, tăng nhân trong chùa chết trong một đêm, Cao Tổ cùng tùy tùng cũng không biết tung tích. Chỉ còn một tiểu tăng độ mười một mười hai tuổi, vâng lệnh sư phụ vào thành mua tương đậu mà thoát chết, trở về mai táng, ở lại thủ ngôi chùa hoang hơn mười năm, rồi cũng qua đời.
Một giáp sau, đến thời Thuận Đế, hậu cung trong triều có linh quái gây họa, nhiều người bỏ mạng. Có cao tăng từ phương xa tới, nói đó chính là linh Trích Thủy, hóa thân từ oán khí người chết, phải lấy ngọc tạc tượng, mô phỏng dung nhan để trấn áp, quả nhiên mấy năm được yên. Về sau tượng ngọc vỡ nát, Tạ hoàng hậu lấy thân mình làm “nhân thắng”, tự thiêu để cùng linh hồn kia đồng diệt, hoàng đế cũng vì thế mà băng hà. Hôm sau, kinh sư tuyết lớn, nửa đêm có kẻ nghe âm thanh lạ, như hàng nghìn hàng vạn nữ nhân cùng cất tiếng khóc than. Hơn mười ngày sau, mới dứt.】
【Ngọc mỹ nhân】— Hoàn.
***