Mộng hồi Tây Châu – Chương 123

Chương 123: Ngọc mỹ nhân (41)

***

“Vỡ rồi?” Hải Triều sững lại, hỏi tiểu thái giám kia: “Trong phòng có ai không?”

Tiểu thái giám lắc đầu: “Không một bóng người, cửa khóa, cửa sổ cũng khép từ bên trong, màn trướng trên giường đều y nguyên, chỉ là chẳng hiểu sao lại vỡ tan.”

“Trước tiên vào xem.” Lương Dạ nói.

Hai người theo tiểu thái giám bước vào Phật đường, bên trong chỉ thắp một ngọn đèn lẻ loi, phướn kinh và tượng Phật in bóng chập chờn, khói trầm hương như một màn sương mờ bất tường, dung nhan không còn sinh khí của Trúc Tuệ thấp thoáng ẩn hiện sau làn sương ấy.

Hải Triều mở toang cửa sổ, gió lạnh ùa vào xua tan khói trầm, lúc này mới thấy rõ cái chết của Trúc Tuệ. Ông ta ngã xuống trước tượng Phật, mắt khẽ mở, thất khiếu rỉ máu, mà thần sắc lại chẳng hề dữ tợn. Với một người đã ngoài bảy mươi, ánh mắt ông lại quá đỗi trong sáng, trong đó không vương luyến tiếc, chỉ có sự thấu suốt buông bỏ, như thể trước khi tắt thở rốt cuộc đã nhìn thấu hết mọi bí mật thế gian.

Lương Dạ bảo tiểu thái giám ra ngoài chờ, cúi xuống đặt ngón tay lên chóp mũi Trúc Tuệ hòa thượng, lại khẽ lật mí mắt ông lên, rồi nhẹ nhàng lắc đầu: “Vừa mới tuyệt khí.”

Một suy nghĩ bỗng lóe sáng trong đầu Hải Triều, nàng lôi từ trong tay áo ra tượng Mã Đầu Nương: “Ông ấy vừa chết, hồn phách hẳn chưa rời đi, dùng Mã Đầu Nương có khi có thể gọi được về!”

“Có thể thử.” Lương Dạ nói.

Tượng Mã Đầu Nương vẫn ngây dại bất động.

Tống quý phi không còn thì đối với yêu tà này Hải Triều cũng chẳng nương tay, nàng giơ tay tát một cái: “Mã Đầu Nương, ở trong đó thì mau ra đây, dám giả chết thì đừng trách ta nổi lửa thiêu ngươi!”

Cơ mặt trên tượng khẽ run lên một cái khó thấy, “ưm ưm” tỉnh lại, ngáp dài một cái: “Có chuyện gì? Bổn tọa ngủ bao lâu rồi?”

“Chúng ta không rảnh nhìn ngươi làm bộ.” Hải Triều hừ lạnh, “Mau gọi hồn Trúc Tuệ hòa thượng về, chúng ta có điều cần hỏi.”

Mã Đầu Nương: “Trúc Tuệ hòa thượng là ai?”

Hải Triều nhấc tượng đặt ngay trước thi thể nhà sư, dí thẳng vào mặt ông ta.

Mã Đầu Nương biến sắc: “Lão sa môn này sao lại chết thế kia? Cái chết thật là dọa người…”

“Nhìn rõ rồi chứ?” Hải Triều nói, “Rõ rồi thì mau gọi.”

Mã Đầu Nương không tình nguyện lẩm bẩm một tiếng, rốt cuộc chẳng dám oán than thêm, bèn nhắm mắt vận lực.

Ước chừng qua một khắc, nó mở mắt, lắc đầu: “Không gọi được.”

“Sao lại không được?” Hải Triều sốt ruột, “Người mới chết, thi thể còn chưa lạnh, có phải ngươi gian trá lười biếng, phải thiêu một trận mới chịu thật thà hay không?”

Mã Đầu Nương cũng cuống quýt đến đỏ bừng cả mặt: “Dù có đốt bổn tọa thành tro, gọi không được chính là gọi không được!”

“Vì cớ gì không gọi được?” Lương Dạ hỏi.

“Thông thường người chết trong vòng một hai ngày, hồn phách vẫn còn lảng vảng quanh đây. Nhưng cũng có kẻ hồn phách không tụ lại nổi hoặc chẳng thể vào luân hồi nữa, như bọn đại gian đại ác, hay kẻ dùng cấm thuật bị phản phệ mà chết. Cũng có khi hồn phách còn đó, mà chẳng muốn đến… Không biết lão sa môn này thuộc loại nào. Bổn tọa chỉ là một tiểu thần từ thôn cùng ngõ hẻm ra, chẳng có bản lĩnh gọi được lão, các ngươi đi tìm cao nhân khác thì hơn!”

Hải Triều biết ép cũng vô ích, đành nhét tượng lại vào tay áo.

Lương Dạ không tỏ vẻ thất vọng, chậm rãi bình thản lục soát thi thể từ trong ra ngoài.

Hắn cởi áo trên người Trúc Tuệ, giơ lên soi dưới ánh đèn dầu: “Bên trong khâu thứ gì đó.”

Hải Triều bước lên nhìn, quả nhiên dưới ánh đèn, chỗ trước ngực áo cà sa có một mảng ánh sáng không chiếu qua.

Nàng rút dao găm, rạch lớp vải ngoài rồi lôi ra một tờ giấy gai gấp bằng bàn tay.

Tờ giấy cũ kỹ, đã ngả vàng, nếp gấp sâu hằn, không biết mở ra gấp vào bao nhiêu lần.

Hải Triều mở giấy ra, trên đó có vài nét mực đơn sơ phác họa một nữ tử thướt tha diễm lệ, tóc dài và tà áo bay lất phất trong gió, dưới chân đạp sóng nước, tuy chỉ mấy nét bút nhưng rõ ràng là cùng một người với hình trên tượng ngọc.

Chỉ có điều khiến Hải Triều bất ngờ nhất là gương mặt này giống nhất không phải tượng ngọc, cũng chẳng phải Hoàng hậu hay Tống quý phi… mà chính là Tiết ngự nữ.

Nói về ngũ quan, gần nhất có lẽ là Hoàng hậu, nhưng thoạt nhìn bức họa, nghĩ đến đầu tiên lại là Tiết ngự nữ, bởi khí vận và tư thái thực sự quá giống.

Mặt sau tờ giấy cũng có chữ, nàng lật lại, thấy chi chít những ký tự vừa như chữ vừa như họa, chính là loại văn tự khắc trên tượng ngọc, tựa một thứ kinh văn thần bí.

Trên cả trang chữ ấy, không biết là ai đã dùng máu viết hai chữ lớn, vết máu đã khô phai song từng nét bút vẫn khiến người rợn ngợp kinh tâm.

Hai chữ này Hải Triều nhận ra, chỉ là chẳng hiểu nghĩa:

“Nhân Thắng…” Nàng cau mày đọc lên, “Ý nói đến ‘Nhân thắng’ vào dịp ‘Nhân nhật’ phải không*?”

“Nhân nhật” tức ngày mùng Bảy tháng Giêng âm lịch, theo tục xưa gọi là “ngày của con người”; “Nhân thắng” là vật trang trí (thường bằng giấy hay vải ngũ sắc) cắt thành hình người, cài lên đầu hoặc áo trong dịp nhân nhật để cầu phúc.

Lương Dạ nhận lấy tờ giấy từ tay nàng, ngắm nghía một lát, ánh mắt khẽ động, rồi gấp lại như cũ: “Không biết là ai viết, trong thời gian ngắn khó lòng giải đoán. Trước tiên đến xem tượng ngọc đã.”

Hai người rời khỏi Phật đường, cầm đèn băng qua sân viện, đi vào trong phòng.

Tên tiểu thái giám kia quả thực không hề nói dối, tượng ngọc đã vỡ thành muôn mảnh, gần như hóa thành bột vụn, hoàn toàn không còn chút hình dáng nguyên bản, chẳng những lớp vỏ ngọc, ngay cả tim gan pha lê bên trong cũng vỡ thành vô số hạt li ti, chỉ còn vài lọn tóc tựa những con rắn đen quấn quanh rơi rải trên giường, khiến ai nhìn cũng phải rùng mình sởn gáy.

Ban đầu Hải Triều còn ngờ rằng có người lén lút đập nát tượng ngọc, nhưng trông thấy cảnh tượng này thì biết không phải sức người có thể làm được.

Nghĩ tới câu “đã không kịp rồi” mà Trúc Tuệ hòa thượng thốt ra trước khi lâm chung, Hải Triều cảm thấy giá lạnh mùa đông thấm tận xương tủy, toàn thân như muốn đông cứng lại.

Trên xe ngựa trở về phủ công chúa, Hải Triều tựa vào vách xe, nhớ lại từng chuyện kể từ khi đặt chân vào mật cảnh này, song chẳng sao xâu chuỗi thành đầu mối.

Nàng liếc sang gương mặt nghiêng của Lương Dạ, thấy mắt hắn nhìn phía trước, vẻ mặt thản nhiên song vẫn ẩn chứa gì đó nặng lòng.

“Nghĩ ra điều gì rồi?” Nàng hỏi.

Lương Dạ hoàn hồn, đáp: “Chỉ là đang sắp xếp lại vụ án trong đầu.”

“Có phát hiện gì không?”

“Bắt đầu từ cái chết của Vạn chiêu nghi, những vụ án này có thể chia thành hai loại.” Lương Dạ vừa suy ngẫm vừa nói, “Mục đích và thủ pháp của hai loại vụ án này hoàn toàn khác nhau.”

Hải Triều lần theo dòng suy nghĩ của hắn mà nghĩ ngợi, nhưng đầu óc vẫn rối như tơ vò, chỉ đành thừa nhận: “Ta không phân biệt được…”

“Trước hết là những điểm khả nghi trong cái chết của Vạn chiêu nghi,” Lương Dạ nói, “Phùng công công kể rằng sau khi tiên Hoàng hậu qua đời, hoàng đế sủng ái độc nhất Vạn quý phi. Quý phi cậy sủng mà kiêu, tranh sủng với tượng ngọc của tiên hậu, nhân lúc hoàng đế ở tiền triều đã đánh roi tượng ngọc khiến tượng vỡ, bị giáng làm chiêu nghi, giam ở lãnh cung, chẳng bao lâu sau thì chết.”

Hải Triều gật đầu: “Vụ án này có gì bất ổn?”

“Thoạt nhìn không có gì sai, nhưng ngẫm kỹ lại thì lộ sơ hở. Thứ nhất, Vạn chiêu nghi vốn xuất thân thế gia, có thể chuyên sủng trong hậu cung, tất nhiên chẳng phải kẻ ngu ngốc. Nói rằng nàng tranh sủng với tượng ngọc, lý do này e có phần khiên cưỡng. Thứ hai, rõ ràng nàng biết hoàng đế hằng đêm cùng tượng ngọc đồng sàng, thế mà còn xông vào tẩm điện quất tượng, thị tùng nội giám tất sẽ bẩm báo lên hoàng đế, chuyện đó chẳng có lợi gì cho nàng cả.”

Hắn dừng một lát: “Nàng ta làm vậy, tất phải có nguyên do hợp tình hợp lý hơn việc tranh sủng.”

Hải Triều chau mày nghĩ ngợi: “Nàng ta biết hoàng đế chắc chắn sẽ giận dữ, vậy mà vẫn cứ phải xông vào, lẽ nào mục đích ban đầu chính là để đập nát tượng ngọc?”

“Đúng vậy.” Lương Dạ gật đầu tán thưởng.

Hải Triều tiếp tục suy đoán: “Tượng ngọc vốn dùng để trấn áp Tà linh, tượng vỡ rồi thì kẻ vui mừng nhất chính là Tà linh bị trấn áp đó…”

Đôi mắt nàng bỗng sáng lên: “Vạn chiêu nghi đã bị Tà linh nhập thân ư?”

Lương Dạ đáp: “Chưa chắc là nhập, có thể là bị thao túng.”

“Vậy Vạn chiêu nghi chết trong lãnh cung, khuôn mặt bị cắt nát, đó là tượng ngọc báo oán hay là muốn bổ toàn chính mình?”

“Tượng ngọc suy cho cùng cũng chỉ là khí cụ trấn áp, chưa chắc đã có tri giác. Có lẽ chúng ta đã nghĩ quá phức tạp,” Lương Dạ nói, “Nó cắt nát gương mặt Vạn Chiêu nghi, chỉ đơn giản là để hủy gương mặt nàng ta mà thôi. Như vậy Tà linh sẽ không thể mượn lại thân xác Vạn chiêu nghi để hoàn hồn.”

Hắn dừng một chút rồi mới nói tiếp: “Theo ta đoán, mục đích của Tà linh là mượn xác hoàn hồn, nhưng điều kiện vô cùng khắt khe, phải là những thân thể đặc biệt mới có thể cho nó sử dụng. Vạn chiêu nghi và Hoàng hậu vốn cùng một mạch huyết thống, dòng dõi nhiều đời trước đều bắt nguồn từ bờ sông nhỏ ở Lạc An Châu, còn Tiết ngự nữ lại là tư sinh nữ của Vạn chiêu nghi trước khi nhập cung. Như vậy có thể thấy huyết mạch chính là điều kiện để Tà linh chọn lấy thân xác.”

Hải Triều nghe hắn phân tích thì lập tức thông suốt, song lại có thắc mắc: “Nhưng Tống quý phi là người Liêu Đông, vì sao tượng ngọc lại giết nàng?”

“Giết nàng không phải tượng ngọc, mà là Tà linh.” Lương Dạ nói, “Theo ghi chép của lão ngỗ tác năm đó, thương tích của Vạn Chiêu nghi chỉ ở trên mặt, còn thương tích của Tống quý phi thì khắp toàn thân.”

“Nhưng Tống quý phi hoàn toàn chẳng liên quan đến những việc này, vì sao Tà linh phải giết nàng?” Hải Triều nhớ lại nụ cười rạng rỡ của Tống quý phi, trong lòng chợt thắt lại.

Lương Dạ chăm chú nhìn nàng, khẽ nhíu mày: “Là vì Thất công chúa. Ta đoán mục tiêu cuối cùng của Tà linh vốn dĩ vẫn luôn là Thất công chúa. Tống quý phi quá thông minh, lại luôn đối chọi gay gắt với Thất công chúa, nàng ta tất nhiên sẽ nhận ra việc công chúa bị đoạt xác. Để trừ hậu họa, giết nàng là tiện nhất.”

Hải Triều há miệng, khóe mắt cay xè: “Là vì ta…”

Lương Dạ khẽ nắm lấy những ngón tay lạnh lẽo của nàng: “Nàng là nàng, Thất công chúa là Thất công chúa. Tà linh giết Tống quý phi còn có lợi ích khác, nó có thể dẫn dụ chúng ta, khiến chúng ta lần theo tượng ngọc mà ngộ nhận rằng tượng ngọc vì muốn tu bổ bản thân nên sát hại những nữ tử có dung mạo tương tự, rồi bỏ qua việc huyết mạch mới là then chốt.”

Hải Triều gật đầu, trong lòng vẫn thấy nghẹn ngào khó thở, trong óc mơ hồ hiện lên một ý niệm, nàng muốn bắt lấy nhưng ý niệm ấy lại trơn tuột như cá bơi, thoắt ẩn thoắt hiện.

Nàng dụi mắt, trấn định lại: “Vậy còn Tiết ngự nữ? Trên người nàng cũng có vết đao, là do Tà linh giết sao?”

Ánh mắt Lương Dạ chợt ngưng lại, từ tay áo rút ra tờ giấy gai, mở ra rồi lạnh lùng nhìn dung nhan nữ tử trong tranh: “Nếu ta đoán không sai, nàng ta chính là Tà linh.”

Sau lưng Hải Triều chợt lạnh toát, dung nhan phiêu dật như tiên nữ trên giấy, thoạt nhìn lại khiến người ta sợ hãi rợn ngợp.

“Hoặc giả đã sớm bị Tà linh đoạt xác rồi.” Lương Dạ nói, “Còn nhớ đêm Tiết ngự nữ gặp chuyện, giờ Hợi chúng ta từng triệu hồn nàng, mà giờ Tý, Lâu mỹ nhân cùng viện vẫn trông thấy nàng đứng bên cửa sổ, khi đó nàng hẳn vẫn còn sống.”

Hải Triều cau mày: “Có khi nào người đó không phải Tiết ngự nữ thật không?”

“Không phải vậy.” Lương Dạ nói, “Mấy kẻ từng ‘được gặp’ Tà linh đều nhắc đến đặc điểm ‘toàn thân trắng muốt’, còn nhớ sợi tóc trắng chúng ta tìm được trong quan tài của Hoàng hậu chứ?”

Hoàng hậu vẫn còn sống, thế mà hoàng đế lại vì bà cử hành tang lễ; trong quan tài phù văn chu sa đỏ thắm vương một sợi tóc bạc… Hải Triều bất giác run rẩy, vậy thì thứ bị đóng đinh nhập liệm dưới quan tài kia rốt cuộc là cái gì?

Lương Dạ tiếp tục nói: “Đêm ấy trong phòng Tiết ngự nữ có thắp đèn, Lâu mỹ nhân đứng trong tối, nếu kẻ đứng bên cửa sổ kia mái tóc trắng xóa, ắt hẳn Lâu mỹ nhân sẽ phát hiện ra điều bất thường. Cho dù lúc đó bỏ qua, thì sau này cũng sẽ nhớ ra điểm khả nghi. 

“Cho nên lúc đó Tiết ngự nữ vẫn chưa chết, mà kẻ chúng ta triệu hồn chính là Tà linh. Nàng làm thế để làm gì?”

“Ngoài việc đánh lạc hướng chúng ta, còn có thể nhân cơ hội đến gần dò xét, xem là kẻ nào đã đi trước một bước chiếm lấy thân xác nó định chọn.”

Hải Triều run rẩy chẳng dám nghĩ tiếp: “Vậy Tiết ngự nữ lại vì sao phải tự vẫn?”

Lương Dạ trầm ngâm chốc lát rồi đáp: “Tiết ngự nữ thân phận hèn mọn, mà dòng chính phải là chi thứ của Hoàng hậu, Vạn chiêu nghi chỉ là họ hàng xa, huyết mạch Tiết ngự nữ càng loãng hơn so với mẫu thân, chẳng phải thân xác lý tưởng. Huống hồ Trúc Tuệ và tượng ngọc hẳn đã để mắt đến nàng, sớm muộn gì cũng sẽ ra tay. Tà linh chỉ coi nàng như chỗ nương náu tạm thời. Đêm ấy chúng ta triệu hồn, nó dò xét được nội tình của chúng ta, biết rằng chúng ta chẳng biết nhiều, không đủ gây họa nên quyết định phải đoạt lại thân xác đã chọn sẵn kia. Thân phận của Tiết ngự nữ bấy giờ đã thành gánh nặng vô ích, chi bằng kịp thời thoát xác, ẩn thân đi, trái lại khiến đám người Trúc Tuệ không sao ra tay được.”

“Vậy Tà linh đã ẩn vào đâu?” Hải Triều hỏi.

“Nó khát khao chiếm được thân xác thích hợp, hai lần ở núi Ly liều lĩnh ra tay với nàng, chứng tỏ nó rất cần thân thể thể này. Hiện giờ có lẽ đang bám tạm vào một kẻ không mấy thích hợp.”

“Hoàng đế?”

Lương Dạ lắc đầu: “Nếu Tà linh có thể trực tiếp đoạt xác hoàng đế, thì nó đâu cần vòng vo, mưu cầu thân phận một công chúa giám quốc nữa. Huống hồ, lúc biệt trang của Thọ Dương công chúa xảy ra biến cố, hoàng đế vẫn còn ở trong cung.”

Huyệt thái dương Hải Triều giật giật, ý niệm mơ hồ kia lại thoáng hiện lên, song nàng vẫn không nắm bắt được.

Nàng nắm tay đấm nhẹ lên trán.

“Nàng nghĩ ra điều gì rồi sao?” Lương Dạ hỏi.

Hải Triều phiền muộn lắc đầu: “Đầu đau quá.”

“Vậy thì đừng nghĩ nữa.” Lương Dạ nói.

Hải Triều khẽ gật đầu rồi tựa hẳn vào vách xe, vén màn cửa sổ nhìn ra ngoài.

Trong thành đã giới nghiêm, trên đường chẳng thấy bóng xe ngựa hay người qua lại, song tòa thành vẫn chưa chìm vào giấc ngủ, bên trong các bức tường vẫn có kẻ ca múa tiệc tùng thâu đêm.

Hải Triều thấy trong một ca phường có ánh đèn rực rỡ hắt sáng một góc trời đêm, tiếng tiêu sáo theo gió lả lướt truyền ra, bất giác có chút hiếu kỳ, liền hỏi phu xe: “Đã tới đâu rồi?”

Phu xe đáp: “Khởi bẩm công chúa, vừa đến Nhân Đức phường, đi thêm một đoạn nữa chính là phủ Thị trung.”

Nhắc tới Thị trung, Hải Triều lại nhớ tới Ngụy Cửu Nương: “Không biết Ngụy Cửu Nương giờ thế nào rồi…”

Lời còn chưa dứt, trong đầu chợt hiện lên một ý niệm, nàng vội gọi phu xe: “Khoan đã, tới Ngụy phủ!”

Lương Dạ hỏi: “Nàng nghĩ ra điều gì rồi sao?”

Hải Triều gật đầu: “Ta có một phỏng đoán, cần tìm Ngụy Lan Chi để đối chứng. Ta luôn không hiểu vì sao Tà linh lại hại một người chẳng hề dính dáng như Ngụy Lan Chi. Nếu là kẻ đó, vậy thì hợp lẽ.”

Bên ngoài, phu xe kinh hãi, sợ tai mình nghe lầm, song vẫn ghìm cương ngựa: “Công chúa nói là… tới Ngụy phủ của Thị trung Ngụy đại nhân?”

“Đúng vậy!” Hải Triều nói.

Phu xe đánh xe dừng trước cổng Ngụy phủ. Thị nữ đi theo phía sau xuống ngựa, bước đến bên xe, bẩm với Hải Triều: “Cổng lớn Ngụy phủ đã khóa, chỉ e Thị trung và cả nhà đã nghỉ ngơi rồi, chi bằng công chúa đợi trời sáng hãy đến?”

Hải Triều nói: “Gõ cửa đi, ta có việc gấp muốn gặp Ngụy Cửu Nương.”

Thị nữ buộc lòng phải gõ cửa. Người giữ cổng Ngụy phủ mở cửa nhỏ bên hông, thấy Thất công chúa giá lâm thì hốt hoảng kinh sợ, vội vàng gọi quản sự đến.

Quản sự cũng như gặp kẻ địch, lập tức muốn đi bẩm báo chủ nhân. Hải Triều liền nói: “Không cần kinh động Thị trung, ta chỉ đến hỏi Ngụy Cửu Nương vài câu mà thôi.”

Chuyện ân oán tình thù giữa Thất công chúa và tiểu thư nhà mình, trong lòng quản sự đều rõ rành rành, lại càng chắc mẩm rằng công chúa nửa đêm xông đến là để hỏi tội, bèn vội vàng đánh thức phu thê Thị trung.

Hải Triều giao phu thê Thị trung cho Lương phò mã ứng đối, còn mình thì gọi một tỳ nữ dẫn đường, xông thẳng vào khuê phòng của Ngụy Cửu Nương. 

***

Chương tiếp theo

One thought on “Mộng hồi Tây Châu – Chương 123

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *