Mộng hồi Tây Châu – Chương 122

Chương 122: Ngọc mỹ nhân (40)

***

“Những quyển sách kia, có ai sao chép lại chữ nghĩa không?” Lương Dạ tiếp tục hỏi.

Chủ tiệm liên tục lắc đầu: “Những sách đó đều cũ nát, thoạt nhìn cũng chẳng phải trân quý hay hiếm có gì. Hơn nữa toàn viết bằng chữ triện nhỏ, công chép lại còn đắt hơn cả giá sách.”

“Ngươi còn nhớ trong sách ghi chép những gì chăng?”

“Với chữ triện tiểu dân hiểu nửa vời, chỉ nhớ trong đó có vài bức họa, nhìn mà rùng mình ớn lạnh.”

“Rùng mình thế nào?” Giọng điệu Lương Dạ ôn hòa, song ánh mắt sắc bén như muốn đâm xuyên tâm can.

Mồ hôi trên trán chủ tiệm vừa lau xong lại túa ra: “Giống như là cảnh người xưa tế thần, chặt đầu một nữ nhân ném xuống sông, rồi chặt vụn thân thể làm tám mảnh, lại bỏ vào vạc mà nấu, rồi phân… phân nhau ăn…”

Hải Triều bất giác lạnh buốt sống lưng, mím môi: “Còn gì nữa?”

Chủ tiệm như muốn khóc: “Tiểu dân nhát gan, chẳng dám xem kỹ. Nghe nói thời Ân Thương dùng người sống tuẫn táng, tế quỷ thần, quá mức tà quái. Tiểu dân chỉ thoáng nhìn thôi đã sợ đêm nằm mộng ác…”

Hải Triều lạnh giọng: “Ta thấy ngươi cũng gan lắm, dám đem thứ tà môn ấy bày bán trong tiệm.”

Chủ tiệm nịnh nọt: “Công chúa dạy phải.”

Lương Dạ: “Ngươi còn biết điều gì khác?”

Chủ tiệm đáp: “Tiểu dân thật sự không biết gì hơn…”

“Những chuyện này là nghe từ Lưu Bát Lang?”

“Đúng, đúng!” Chủ tiệm như vớ được cọng rơm cứu mạng, “Lưu Bát Lang vốn người Lạc An Châu, có lẽ hắn biết nhiều hơn, quý nhân có thể bắt hắn về hỏi…”

Lương Dạ quay sang sai thị vệ: “Đem Lưu Bát Lang áp giải tới đây.”

Chủ tiệm nghe như được đại xá, vội vàng dập đầu liên hồi.

Một tên thị vệ quát: “Sau này làm ăn cho lương thiện, chớ còn dính vào việc buôn bán đồ gian, bằng không đưa ngươi đến Đại Lý Tự, để xem ngươi chịu nổi hay không!” Dứt lời thì xách cổ áo lão lôi ra ngoài.

Chưa đầy nửa canh giờ, thị vệ đã áp giải Lưu Bát Lang về.

Lưu Bát Lang là kẻ lưu manh ở Trường An, thân hình cao lớn, tướng mạo đường đường, song chuyện trộm gà bắt chó không gì không làm, đối phó quan sai đã thành thói quen nên chẳng hoảng hốt như chủ tiệm kia.

Lương Dạ mở miệng thẳng thừng: “Ngươi từng từ một ngôi chùa cổ ở Lạc An Châu trộm được một đống bố thư và trúc giản, còn nhớ chăng?”

Lưu Bát Lang đảo mắt, cân nhắc trong lòng một lúc liền hiểu đối phương chỉ hỏi chuyện, chứ chưa định xử tội. Song nhìn vị phò mã trẻ tuổi văn nhã, lại biết chẳng phải hạng dễ qua mặt.

Hắn bèn đáp: “Có phải phò mã nói đến miếu Đích Quân? Ngôi miếu ấy từ lâu đã hoang phế, vốn không có chủ. Lần vừa rồi tiểu nhân về quê, thấy điện vũ đổ nát, tượng thần lăn lóc dưới đất, thì… thì có lòng tốt, gọi vài huynh đệ cùng nhau dọn dẹp đống phế tích, lại còn tô sơn thếp vàng cho tượng thần, đưa đến đạo quán Trường Sinh gần đó để cung phụng…”

Hải Triều nghe xong, bật cười khinh bỉ: “Ngươi quả thật là một bậc đại thiện nhân!”

Lưu Bát Lang dày mặt: “Quý chủ quá khen.”

Hải Triều lạnh lẽo: “Ta xem là các ngươi đã vét sạch của cải trong miếu, sợ thần minh trách tội, mới đem tượng thần tô vẽ bóng bẩy rồi gửi sang đạo quán thờ phụng.”

Lưu Bát Lang cười nham nhở: “Quý chủ quả nhiên tuệ nhãn như đuốc, chút tư tâm ấy  tiểu nhân chẳng qua được đôi mắt sáng của ngài…”

Lương Dạ lạnh giọng: “Đống sách kia từ đâu ra?”

Lưu Bát Lang vội nghiêm mặt, cung kính đáp: “Khởi bẩm phò mã, những thứ đó vốn được xây nhét trong tường bùn, tường đổ thì sách rơi ra. Khi tiểu nhân thấy thì đã bị mưa dột mấy phen, chữ nghĩa mờ hết. Tiểu nhân chẳng biết chữ, chỉ nghĩ sách cổ lâu năm, để mưa dầm hư hỏng thì tiếc, nên gom cả lại đem đi… Tiểu nhân có quen với Vương Nhị mở tiệm đồ cổ, biết lão ấy thích mấy thứ rách nát, bèn đưa cho lão ta thu chẳng được mấy hào.”

“Về ngôi miếu kia, ngươi còn biết gì khác?” Lương Dạ hỏi.

Lưu Bát Lang gãi đầu: “Đều là lời đồn vớ vẩn của thôn phu lão nhân, nói ra lại bẩn tai phò mã cùng quý chủ…”

Lương Dạ dùng ngón tay gõ nhẹ mặt bàn: “Những gì biết được, nói hết ra.”

Lưu Bát Lang vội gật đầu liên tục: “Tuân mệnh, tuân mệnh! Toàn là truyền thuyết nghe từ thuở nhỏ ở quê… Ngôi miếu đó chẳng rõ xây từ khi nào, nhưng lão nhân kể chuyện đều nói rất cổ, ít thì vài trăm, nhiều thì ngàn năm có lẻ…”

“Trong miếu thờ thần linh gì?”

“Miếu dựng bên suối nhỏ, tế thờ thủy thần gọi là Đích Quân. Nhưng linh nghiệm chẳng phải Đích Quân, mà là Đích Phu Nhân. Bởi vậy dân địa phương đều gọi là miếu Đích Phu Nhân, cũng có người gọi là miếu Trích Thủy Nương Nương, đều là một cả.”

Thần chủ là Đích Quân, vậy mà người ta lại bái phu nhân, đây là lần đầu tiên Hải Triều nghe thấy chuyện kỳ quái như thế: “Vậy vị Đích Phu Nhân ấy là ai?”

“Khởi bẩm quý chủ,” Lưu Bát Lang đáp, “Có người nói là thê tử của Đích Thủy Hà Thần, cũng có kẻ bảo chẳng phải phu thê gì cả. Dù sao cũng chẳng ai rõ, trong miếu vốn không có tượng Đích Phu Nhân, đám hòa thượng cũng không thừa nhận có vị thần này…”

Hải Triều lấy làm khó hiểu: “Vậy lời đồn từ đâu mà ra?”

Lưu Bát Lang nuốt khan một ngụm, sắc mặt hơi hoảng hốt, giọng cũng bất giác hạ thấp: “Bởi chẳng phải chỉ một người nói đã gặp qua…”

“Không phải nói là không có thần tượng sao, sao lại có người gặp được?” Hải Triều nhíu mày, lạnh giọng: “Chẳng lẽ ngươi đang bịa đặt?”

“Tiểu dân không dám, không dám.” Lưu Bát Lang hoảng hốt: “Nghe nói thuở ban đầu có một đôi phu thê nhiều năm không có con, đến miếu khấn thần cầu tự. Trong miếu bỗng xuất hiện một nữ tử toàn thân trắng như tuyết, sau khi trở về chẳng bao lâu liền có thai.

“Về sau lại có người nói cũng nhìn thấy nữ tử toàn thân trắng toát ấy trong miếu, hễ gặp qua đều được toại nguyện, vì thế tin đồn lan khắp.”

Hải Triều nói: “Đã linh nghiệm như thế, e cửa miếu bị người chen chúc mà nát cả ngưỡng cửa rồi?”

“Nghe nói thuở đầu quả nhiên có rất nhiều người tìm đến cầu Đích Phu Nhân hiển linh, nhưng dần dà, những nhà từng toại nguyện lại lần lượt gặp tai ương, vì thế người đến cầu khấn cũng thưa đi.

“Còn những hòa thượng kia, chẳng những không cầu hương hỏa, lại còn hung hăng đuổi người ra ngoài.”

“Làm gì có loại thượng kỳ dị như thế…” Hải Triều thì thầm.

“Quý chủ nói chí phải.” Lưu Bát Lang nịnh nọt, “Đám hòa thượng ấy quả thật cổ quái vô cùng, chẳng bao giờ ra khỏi cửa làm pháp sự cho ai, ngày ngày chỉ ru rú trong miếu, ngoài tụng kinh thì lại cày cấy. Từ khi tin Đích Phu Nhân hiển linh lan ra, bọn họ dứt khoát đóng chặt cửa miếu, không cho khách hương vào. Ngoài việc mười ngày nửa tháng sai một tiểu sa di ra ngoài mua chút dầu muối, thì tuyệt chẳng giao tiếp cùng dân quanh. Ngay cả lão nhân trong thôn cũng chẳng rõ gốc gác lai lịch của họ.”

Hải Triều xoa cằm, nghĩ bụng: miếu thờ thần sông đã đủ quái lạ, lại còn cấm hẳn khách hành hương ngoài cửa, càng kỳ dị hơn nữa.

Lương Dạ chậm rãi hỏi: “Những nhà được như ý nguyện kia, về sau ra sao?”

“Như đôi phu thê cầu con kia, quả nhiên sinh được con trai, nuôi đến mười mấy tuổi sắp thành nhân, đột nhiên chết đuối.”

“Có lẽ là ngẫu nhiên chăng?” Hải Triều nói.

Lưu Bát Lang thần thần bí bí: “Nếu là chết đuối trong sông thì thôi chẳng ai nghĩ nhiều, nhưng đứa trẻ ấy là rửa mặt trong chậu mà chết đuối, bảo không kỳ quái được sao?”

Trong lòng Hải Triều đột nhiên thấy lạnh người, thủ đoạn này nàng lại chẳng xa lạ gì.

“Đứa trẻ chết đi, hai phu thê già cũng chẳng qua nổi một năm mà nối gót nhau, cả nhà tan nát.” Lưu Bát Lang kể tiếp, “Nghe nói những ai từng gặp nữ nhân quái dị kia, đều không thoát khỏi bất hạnh, cầu nguyện càng lớn, kết cục càng thảm. Tương truyền triều trước có một nho sinh gặp Đích Phu Nhân trong miếu, sau quả nhiên đắc chí, làm quan to, hiển hách được mấy năm. Nào ngờ thế lực dựa vào sụp đổ, hắn bị cuốn vào đại án, cả nhà mấy chục miệng bị tru diệt sạch.”

Lưu Bát Lang nói một tràng, cuối cùng mới cúi đầu: “Tất cả đều là lời đồn miệng, vốn chẳng có chứng cứ.”

Lương Dạ hỏi: “Vậy miếu ấy là từ khi nào thì hoang phế? Còn những hòa thượng kia sau đó đi đâu?”

Lưu Bát Lang gãi khuỷu tay, đáp: “Là từ mấy chục năm trước, lúc đổi triều loạn lạc. Đám hòa thượng ấy vẫn đóng cửa thủ miếu. Nghe nói có lão hòa thượng từng cứu mấy thương binh, cho bọn họ ở nhờ hai tháng, nhưng đến khi vết thương vừa lành thì trở mặt, giết sạch toàn bộ hòa thượng, lại chở một xe tài vật đi.”

Hải Triều nói: “Một ngôi miếu nhỏ không thu hương hỏa, thì có bao nhiêu tài vật để mà cướp?”

Lưu Bát Lang lắc đầu: “Có người đồn rằng dưới miếu có cổ mộ, đám hòa thượng thực ra đều là đạo tặc cải trang, lấy vỏ bọc đó để che mắt thiên hạ, đào trộm bảo vật trong mộ từng chút một đem ra ngoài.”

Hải Triều liếc xéo hắn: “Xem ra ngươi cũng từng xuống đào bới rồi. Vậy dưới đó thực sự có cổ mộ chăng?”

Lưu Bát Lang cười “hì hì”: “Tiểu dân nào dám dối gạt quý chủ, từ nhỏ đã nghe truyền thuyết ấy mà lớn, cũng từng hiếu kỳ không biết bên dưới có phải thật sự có mộ… hay thứ gì, nếu thật sự tìm được, đem báo quan phủ cũng coi như một việc công lao…”

Hải Triều tự nhiên chẳng tin lời quỷ biện của hắn, hừ lạnh một tiếng: “Tìm được chưa?”

Lưu Bát Lang ủ rũ: “Lời đồn đều là hù dọa người thôi, dưới đó chỉ có một hầm rau.”

Lương Dạ nói: “Tin đồn không phải vô căn cứ, vì sao lại truyền ra lời rằng dưới ngôi miếu có cổ mộ?”

Lưu Bát Lang nghĩ một lát rồi đáp: “Nghe lão nhân quê tiểu nhân nói, thuở đó từng có người tận mắt thấy xe kéo chở ra một cỗ quan tài, vì vậy mới có truyền thuyết ấy.”

Trong lòng Hải Triều khẽ động: “Quan tài gì?”

“Nghe nói là một cỗ quan tài lớn chạm trổ bằng đá, nặng vô cùng, phải dùng mấy con chiến mã mới lôi ra nổi… Đúng rồi!” Mắt Lưu Bát Lang chợt sáng lên, “Tiểu dân nhớ có nghe kể, năm ấy bọn binh sĩ kia không giết sạch hòa thượng trong miếu, còn sót lại một tiểu sa di, đúng lúc ra ngoài mua tương đậu nên thoát nạn.”

Lương Dạ hơi nhướng mi: “Tiểu sa di đó về sau thế nào?”

Lưu Bát Lang gãi tai: “Nói ra tiểu sa di ấy quả là hiếu thuận, khi đó mới hơn mười tuổi, vậy mà cắn răng lôi từng thi thể ra sau rừng chùa hạ táng.

“Sau này có người khuyên hắn hoàn tục, hắn không chịu, cứ một thân thủ miếu vài năm. Thật sự không còn kế mới ra ngoài tụng kinh xin ăn, nhờ hương dân chu cấp mà sống lay lắt, rồi chẳng biết trôi dạt phương nào nữa, miếu cũng từ đó bỏ hoang.”

“Có biết pháp hiệu hay danh tính tiểu sa di đó chăng?” Lương Dạ hỏi.

“Lúc ấy tiểu dân còn chưa sinh ra, thật chẳng hay. E rằng chỉ có lão giả bản thôn mới nhớ rõ.”

Nếu giờ lại phái người đi Lạc An Châu dò hỏi, vừa đi vừa về ít nhất cũng mười ngày nửa tháng, chắc chắn không kịp.

Lương Dạ lại hỏi: “Ngôi miếu kia từ năm nào thì phế bỏ?”

Lưu Bát Lang giơ ngón tay tính toán: “Loạn binh là đây năm mươi sáu mươi năm trước, khi ấy tiểu hòa thượng độ mười tuổi, nghe nói sau khi sư phụ, sư tổ chết hết, hắn lại thủ miếu thêm mười năm, vậy tức là bốn, năm mươi năm trước thì hoang phế rồi.”

Lương Dạ lại gạn hỏi thêm mấy câu, thấy hắn không biết gì nhiều về miếu Đích Phu Nhân, mới bảo thị vệ dẫn ra ngoài.

Đợi người đi rồi Hải Triều mới nói: “Xem ra Đích Phu Nhân chính là yêu tà hại ta cùng Trình Hàn Lân. Vị tiểu sa di năm ấy thoát nạn vì đi mua tương, tám phần chính là hòa thượng Trúc Tuệ trong cung. Hơn bốn mươi năm trước, có người còn thấy ông ta ngồi an cư tại một Phật tự ở Lạc Dương, ngày ngày cầm bức họa nữ nhân hỏi khắp nơi có ai từng gặp qua. Ông ta tìm chưa biết chừng chính là Đích Phu Nhân!”

“Còn nữa.” Lương Dạ tiếp lời, “Hoàng đế sai người điêu khắc tượng ngọc mỹ nhân, cũng là sau khi Trúc Tuệ nhập cung, việc này tất nhiên có liên can đến ông ta.”

Lục Uyển Anh ngẫm nghĩ: “Trúc Tuệ hòa thượng nhập cung chẳng bao lâu sau khi tiên Hoàng hậu băng, lẽ nào cái chết của tiên Hoàng hậu cũng có dính dáng tới Đích Phu Nhân?”

“Hoàng hậu chưa chết.” Hải Triều nói, “Ta quên chưa nói với Lục tỷ tỷ.”

Nàng đem chuyện họ ở núi Ly tình cờ phát hiện Hoàng hậu bị giam dưới cung điện ngầm kể sơ qua một lượt, Lục Uyển Anh cũng nghĩ mãi chẳng thông.

Lương Dạ nói: “Bất luận thế nào, họa loạn từ ngôi thủy miếu hơn năm mươi năm trước, chính là đầu mối của tất cả chuyện này.

“Không rõ mấy tên thương binh vong ân bội nghĩa kia là ai, trong cỗ quan tài chúng mang đi rốt cuộc chứa thứ gì.” Hải Triều chống má, lẩm bẩm.

“Về thân phận đám binh lính ấy, ta có một suy đoán,” Lương Dạ nói, “Năm xưa quần hùng tranh bá, Cao Tổ hoàng đế triều này vốn từ lính cỏ khởi binh, lúc đầu chỉ có dăm nghìn quân, phải nương nhờ dưới trướng thế lực khác, còn suýt bị diệt toàn quân trong một trận chiến. Ông ta cùng vài thân tín xông ngựa thoát thân, may mắn giữ mạng, sau khi vết thương lành mới quay trở lại Thanh Châu Mục, chẳng đầy hai năm thì đoạt quyền, ba năm bình định Ký Châu, Dự Châu…”

“Trước trận chiến suýt vong thân ấy, Cao Tổ dù văn hay võ đều chẳng có gì xuất chúng, phạm phải những sai lầm hiển nhiên. Nhưng từ sau một trận ấy lại như biến thành một người khác, đánh đâu thắng đó không gì cản nổi, nói có thần trợ cũng không quá.”

“Nếu ta đoán không sai, sau khi cùng thân tín đột vây, bọn họ đã chạy đến bờ Trích Thủy, mình đầy thương tích, được chư tăng trong chùa cứu giúp, ở trong miếu dưỡng thương…”

Hải Triều trợn mắt: “Ý ngươi là, khi ông ta dưỡng thương đã nhìn thấy Đích Phu Nhân…”

Lương Dạ gật đầu: “Ta hoài nghi ông ta nghe được truyền thuyết trong miếu Đích Phu Nhân, ngấm ngầm phát nguyện, khiến Tà linh hiện thân.”

Lục Uyển Anh lẩm bẩm: “Cầu càng lớn, kết cục càng thảm…”

“Nghe chẳng khác gì buôn bán.” Hải Triều nói, “Không đúng, chẳng phải ông ta đã làm hoàng đế sao? Chỗ nào gọi là thảm?”

Lương Dạ đáp: “Nếu đây là một cuộc giao dịch, thì hoặc là lời hứa chưa thực hiện, hoặc là ông ta tìm được cách chế ngự Đích Phu Nhân…”

Ánh mắt hắn bỗng lóe sáng: “Ta hiểu rồi.”

“Hiểu gì?” Tim Hải Triều đập gấp.

Lương Dạ liếc về phía Trình Hàn Lân đang lặng lẽ nằm trong trướng: “Ta hiểu ý nghĩa tin tức Ngọc Thư để lại rồi. Nhật, Nguyệt, Thổ hợp lại thành một chữ ‘Áp’.”

“Áp? Áp cái gì?” Hải Triều vẫn chẳng hiểu.

“Áp thắng.” Lương Dạ nói, “Từ đầu chúng ta đã sai lầm. Tượng ngọc vốn không phải Tà linh, mà là vật trấn áp, giam cầm Tà linh.”

“Vậy tượng ngọc là tốt? Giết người là Tà linh?” Hải Triều rối rắm, càng nghĩ càng không thông.

“Không đơn giản thế đâu…” Sắc mặt Lương Dạ nặng nề, “Chúng ta phải lập tức vào cung một chuyến.”

Hắn quay sang Lục Uyển Anh: “Phiền Lục nương tử chăm sóc Ngọc Thư.”

Lục Uyển Anh nhìn ra ngoài cửa sổ, trời đã tối đen: “Giờ này mà vào cung? Trúc Tuệ hòa thượng không biết là địch hay bạn, lỡ bất lợi cho các người thì sao…”

“Dù có nguy hiểm cũng phải đi, đêm tối mới dễ xảy chuyện.” Hải Triều nói, “Kéo đến sáng mai, chẳng biết sẽ còn biến cố gì.”

Nàng vừa dứt lời đã đứng dậy: “Chúng ta đi sớm về sớm.”

Lục Uyển Anh đành tiễn họ ra tận hành lang: “Hai người phải hết sức cẩn trọng.”

Hải Triều nói: “Lục tỷ tỷ chớ tiễn nữa.”

Lục Uyển Anh tiễn họ đến tận bậc hiên, nhìn theo bóng dáng dần xa, chợt gọi lại: “Đúng rồi, Lương công tử dặn ta tra xét chuyện nhà Tiết ngự nữ, hôm nay đã có tin, chỉ là vì công tử Trình gặp chuyện, suýt chút nữa ta quên mất…”

Lương Dạ và Hải Triều liền dừng bước.

“Tra được gì?” Lương Dạ hỏi.

“Vạn chiêu nghi trước khi nhập cung từng có tư tình với một gia nô, sinh ra một nữ nhi. Phụ mẫu nhà họ Vạn bèn tìm một đôi phu thê lớn tuổi hiếm muộn trong tộc giao ngoại tôn nữ cho họ nuôi dưỡng. Đứa bé ấy chính là Tiết ngự nữ, ngay cả cha mẹ nuôi cũng không biết sinh mẫu nàng là ai.

“Còn nữa, nghe nói Tiết ngự nữ từ nhỏ đã cứng cỏi có chủ kiến, biết mình là con nuôi, nên quan hệ với cha mẹ nuôi chẳng mấy thân thiết, nhất là với mẹ nuôi còn có chút xích mích.”

Hải Triều cố nhớ lại, mới sực nghĩ đến đêm đó triệu hồn, ngẫu nhiên triệu đến linh hồn du đãng, lời lẽ e dè nhút nhát của Tiết ngự nữ, nói năng nhỏ nhẹ, đối hoàng đế không oán không hận, chỉ khóc lóc lo lắng cho mẫu thân… Khí chất ấy hoàn toàn khác xa với vị Tiết ngự nữ kiên cường mạnh mẽ mà Lục tỷ tỷ vừa kể.

Nàng bất giác nhớ đến lần đầu gặp Tiết ngự nữ, lời Phùng thái giám lúc ấy như còn ẩn ý.

“Ngự nữ này xem ra cũng không đơn giản.” Nàng nói.

Lương Dạ khẽ gật đầu, cảm tạ Lục Uyển Anh, rồi cùng Hải Triều rời viện, lên xe ngựa.

Lúc ấy tiếng mõ chiều đã vang, trong thành giới nghiêm, cổng phường khép kín. Giữa đêm đông lạnh lẽo chỉ còn tiếng bánh xe và vó ngựa, càng thêm hiu quạnh.

Đến nơi, cung thành đã khóa, quân canh chỉ khi thấy lệnh bài phủ Thất công chúa mới chịu mở cửa thả vào.

Lương Dạ sai phu xe thúc ngựa nhanh, một đường thẳng đến tẩm cung hoàng đế.

Ngự giá còn ở núi Ly, đa phần thái giám cung nữ theo giá đến Dục Tuyền cung, tẩm cung lúc này đèn đóm thưa thớt, trông lạnh lẽo tiêu điều.

Hải Triều và Lương Dạ xuống ngựa, vội vã chạy thẳng đến Phật đường.

Nhưng chưa kịp qua sân, đã gặp một tiểu thái giám vẻ mặt hoảng hốt, khuôn mặt ấy có chút quen khiến Hải Triều nhớ ra hắn là người chuyên hầu hạ Trúc Tuệ hòa thượng.

Tim nàng chợt hẫng, liền quát: “Có chuyện gì? Hòa thượng đâu?”

Tiểu thái giám ngẩng đầu, nhận ra người đến thì quỵ ngay xuống đất: “Khởi bẩm Thất công chúa, hòa… hòa thượng gặp chuyện rồi…”

“Chuyện gì?”

Tiểu hoạn quan nức nở: “Hòa… hòa thượng đã viên tịch rồi…”

Tim Hải Triều đập loạn, kinh hãi: “Từ khi nào? Sao lại đột nhiên viên tịch?”

“Nô… nô cũng không biết… Lúc làm khóa tụng chiều vẫn an ổn, còn cùng nô bàn luận Phật lý. Bỗng dưng cười nói ‘thời khắc đã đến’, nô chẳng hiểu gì hỏi lại là giờ nào thì hòa thượng bỗng phun ra một ngụm máu, nói ‘là giờ xuống địa ngục’, rồi ngã xuống…”

Sắc mặt Lương Dạ trầm như nước: “Ông ta có để lại lời nào không?”

Tiểu thái giám thoáng ngạc nhiên, rồi gật đầu liên hồi: “Lúc hòa thượng lâm chung, bảo nô chuyển hai câu cho Lương phò mã: Trong thiện ác chọn thiện vốn không khó, khó là giữa trăm ác chọn lấy một. Còn nói, đã không kịp nữa rồi.”

“Không kịp? Không kịp cái gì?” Hải Triều nóng ruột, túm chặt tay hắn.

Tiểu thái giám hoảng loạn lắc đầu: “Hòa thượng không nói…”

“Tượng ngọc đâu?” Lương Dạ hỏi.

Tiểu thái giám mặt cắt không còn giọt máu: “Hòa thượng vừa viên tịch thì nô nghe thấy trong phòng vang lên một tiếng ‘choang’, vội chạy vào xem đã thấy tượng ngọc không hiểu sao vỡ tan nát rồi!” 

***

Chương tiếp theo

One thought on “Mộng hồi Tây Châu – Chương 122

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *