Mộng hồi Tây Châu – Chương 113

Chương 113: Ngọc mỹ nhân (31)

***

Hải Triều bất giác nhớ lại trụ trì chùa Quang Minh từng nói, thuở còn trẻ có lần gặp một vị du tăng pháp hiệu Trúc Tuệ ở Lạc Dương, kẻ ấy ít lời, nhưng luôn cầm một bức họa cũ kỹ đi khắp nơi dò hỏi. Chẳng lẽ vị du tăng kia chính là Trúc Tuệ trong cung? Thế còn nữ nhân trong bức họa lại là ai?

Nàng chợt nhớ đến nữ nhân trong tranh dẫm sóng mà đi, có phải cũng có liên hệ với Trích Thủy?

Nàng đem nghi vấn nói ra, Lương Dạ đáp: “Ta đã sai người đến Lạc An Châu tra xét, nhưng đi một chuyến trở về mất mấy ngày, chưa chắc kịp có kết quả gì hữu dụng.”

Hải Triều nói: “Nếu như ở trong kinh thì tốt rồi, bắt lấy lão hòa thượng ấy tra hỏi cho rõ…”

Lương Dạ lắc đầu: “Nếu ông ta không muốn nói, e khó mà ép ra lời.” Hắn dừng lại một chút, đoạn lựa lời: “Đừng lo, vừa rồi ta đã sai người gửi thư cho Ngọc Thư, bảo hắn tìm tra những điển tịch liên quan đến việc hiến tế ở Trích Thủy, theo mạch này nhất định sẽ lần ra được điều gì đó.”

Hải Triều đành gật đầu.

Trong lúc nói chuyện, xe ngựa đã chạy qua cửa Tân Dương Môn của cung thành núi Ly.

Hành cung xây ở phía bắc núi Ly, không chỉ cung điện viện lạc san sát như sao trời, dưới chân núi còn có công phủ và quan xá của bách quan, hệt như một tòa thành nhỉ. Thời tiên đế, mỗi khi mùa đông đến thường cùng triều đình dời đến núi Ly, ở lại mấy tháng, chờ xuân về ấm áp mới quay về Trường An.

Hoàng đế hiện tại tuy không đến mức rầm rộ như thế, nhưng năm nào cứ tết âm là dời đến núi Ly, ở đó cho đến tận Thượng Nguyên.

Thất công chúa hàng năm đều theo ngự giá đến núi Ly, tự nhiên có riêng một viện suối tắm. Nàng ở Hải Đường canh, kề bên Thiếu Dương canh của thái tử, đều thuộc phía nam hành cung, cùng chung cảnh trí suối nóng. Do Hoàng đế vẫn chưa lập thái tử nên Thiếu Dương canh bỏ không, cảnh đẹp ấy trở thành chốn riêng của Thất công chúa.

Các công chúa khác lại ở tại phía bắc, sự thiên ái của Hoàng đế đối với Thất công chúa có thể nhìn rõ bằng mắt thường.

Hải Triều về đến viện, nghỉ ngơi đôi chút, rửa mặt thay y phục rồi chuẩn bị đi yết kiến Hoàng đế.

Lúc sắp ra cửa, Tống quý phi trong hộp ngọc bỗng la lên: “Các ngươi đi gặp cái lão quỷ kia sao? Đem bản cung đi theo!”

“Không phải ngươi rất ghét ông ta sao?” Hải Triều lấy làm lạ.

“Tất nhiên là ghét!” Tống quý phi nói, “Nhưng bản cung chết rồi vẫn chưa gặp lại lão quỷ ấy, nói không chừng cái chết của bản cung cũng có phần của lão ấy! Đi nghe thử xem ông ta nói thế nào. Có bản cung đi cùng, các ngươi cũng dễ che giấu hơn.”

Hải Triều nghĩ lại, thấy lời nàng cũng có chút đạo lý: “Nhưng ngươi tuyệt đối đừng lớn tiếng.”

Tống quý phi vội đồng ý, Hải Triều nhét bùa Sư Khoáng vào tai, đem nàng ta nhét trong ngực. May là y phục tháng chạp dày dặn, pho tượng lại nhỏ, thoạt nhìn cũng không dễ phát hiện.

Tới chính điện, vừa bước lên bậc thềm trước tẩm điện đã thấy Phùng công công ở đó nghênh đón, thấy họ vội vàng tiến lên hành lễ.

Hải Triều vừa định mở miệng, thì trong điện chợt vang lên tiếng sứ vỡ giòn chát loảng xoảng, khiến nàng giật thót.

Phùng công công hiện vẻ khó xử, thấp giọng: “Tam công chúa vừa đến, đang ở trong ấy cùng Thánh nhân nói chuyện… Thánh nhân nghe tin Cửu công chúa, giờ đang trong cơn bi phẫn… hay là Thất công chúa qua điện bên này chờ tạm một lát, đợi Thánh nhân nguôi giận.”

Hải Triều không khỏi kinh ngạc. Trước kia nghe chuyện Tống quý phi cùng thái giám mập mờ, Hoàng đế cũng chẳng giận dữ, một quốc quân trông như bùn nhão chẳng có lấy chút tính khí, không ngờ cái chết của Cửu công chúa lại khiến ông ta chấn động đến thế.

Lẽ nào vì lần này chết đi là nữ nhi ruột thịt nên mới khác biệt?

Hải Triều nghĩ rồi nói: “Ta vào xem phụ hoàng và tỷ tỷ thế nào.”

Phùng công công cũng không ngăn: “Thất công chúa đi khuyên nhủ Thánh nhân cũng tốt.”

Nói rồi dẫn họ vào điện. Còn chưa kịp tới trước ngự sàng, lại nghe thêm một tiếng loảng xoảng.

Tiếp theo là tiếng quát giận dữ của Hoàng đế: “Đại nương, Nhị nương một kẻ yểu mệnh, một người đi hòa thân ở biên tái, trong đám tỷ muội còn lại ngươi lớn tuổi nhất nhưng ngoài chè chén yến tiệc, ca múa suốt đêm, ngươi còn biết làm gì? Khi xưa cứ khóc lóc nằng nặc đòi lấy phò mã, kết quả chưa đầy hai năm đã hòa ly, đường đường công chúa Thiên gia hóa thành trò cười trong thiên hạ! Nay ngay cả muội muội cũng trông nom không xong, trẫm sao lại sinh ra một nghiệp chướng như ngươi!”

Tống quý phi khẽ hừ lạnh: “Trên không ngay ngắn thì dưới xiêu vẹo, bản thân tuổi tác đã cao mà năm lần bảy lượt sai người rước tiểu nương tử khắp nơi về giày vò, suốt ngày bắt phương sĩ luyện thuốc tráng dương, vậy mà còn có mặt mũi mắng nữ nhi mặt ngựa xấu xí của mình.”

Hải Triều: “…..”

Bình thường lanh lợi miệng lưỡi như Thọ Dương công chúa, giờ cũng không dám thở mạnh, chỉ có thể cúi đầu khe khẽ nức n.

Hoàng đế hướng ra ngoài màn trướng cao giọng quát: “Phùng Phổ Vân, mau thay trẫm soạn chỉ, giáng nghiệp chướng này xuống làm thứ nhân!”

Phùng công công vội vã bước tới, quỳ bên cạnh Thọ Dương công chúa: “Thánh nhân xin suy xét. Cửu công chúa bất hạnh gặp nạn, Tam công chúa làm tỷ tỷ, trong lòng vốn đã đau đớn khôn xiết. Người lại xảy ra chuyện trong biệt nghiệp của nàng, nên nàng tự trách càng nhiều. Nhưng loại việc này khó thể lường trước, há có thể hoàn toàn quy tội cho Tam công chúa…”

Thọ Dương công chúa cũng vừa khóc vừa dập đầu: “Tam nương đã biết tội, chỉ cầu Thánh nhân niệm tình mẫu thân đã khuất, tha cho nữ nhi bất hiếu lần này.”

Hoàng đế hừ lạnh một tiếng, song không nhắc lại chuyện giáng làm thứ nhân.

Phùng công công nhân cơ hội tâu: “Bẩm Thánh nhân, Thất công chúa và Phò mã đã đến, hiện đang chờ ngoài điện.”

Hoàng đế trầm ngâm một thoáng rồi nói: “Tuyên bọn họ vào đi.”

Phùng công công cất giọng: “Mời Thất công chúa, Lương Phò mã vào trong yết kiến!”

Hai người bước qua màn trướng, tiến tới trước ngự sàng. Dưới nền điện đầy mảnh sứ vỡ, Thọ Dương công chúa phủ phục quỳ trên đất, xương vai gồ lên khẽ run, trông cực kỳ đáng thương.

Đây là lần thứ hai Hải Triều diện kiến Hoàng đế. Ông ta nằm trên ngự sàng, đầu tựa gối gấm, tóc bạc rối tung, mắt đầy tơ máu. So với lần trước lại như già thêm mấy phần, nhưng khác với vẻ trầm u ảm đạm khi trước, lần này bởi cơn giận mà mặt đỏ bừng, lồng ngực phập phồng, thoạt trông lại giống một người sống hơn.

Hai người tiến lên hành lễ.

Hoàng đế thu bớt giận dữ, khẽ gật đầu: “Tiểu Thất, Tử Minh, các ngươi đến rồi.”

Lại liếc Thọ Dương một cái, lạnh lùng quát: “Đứng dậy! Ngay cả trước mặt muội muội, muội phu cũng không ra dáng tỷ tỷ, trẫm cũng vì ngươi mà thấy mất hết mặt mũi!”

Thọ Dương công chúa nấc lên, run rẩy đứng dậy, lén trao cho Hải Triều một ánh mắt cảm kích rồi vội vàng lui sang một bên, lặng lẽ cúi đầu, mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim.

Hải Triều vốn không phải cố tình đến để cứu vãn cho vị tỷ tỷ hời hợt này, nhưng đã gặp thì nàng cũng mở miệng nói: “Phụ hoàng, chuyện của Cửu nương không thể chỉ trách tỷ tỷ, nữ nhi cũng ở trong biệt viện, chưa trông coi được muội muội, cũng là lỗi của con.”

Hoàng đế nói: “Việc ấy liên can gì đến con? Con bình yên vô sự đã là vạn hạnh rồi! Trẫm nghe nói, chính con cũng suýt chết đuối trong ôn tuyền, may mà phò mã kịp thời cứu được.”

Tim Hải Triều khẽ run. Nàng ở biệt viện của Thọ Dương suýt chết chìm, việc ấy sao đã truyền đến tai Hoàng đế nhanh như vậy? Không biết là ai bên cạnh nàng đã lén đưa tin đi, quả thực phòng cũng chẳng phòng được.

Thọ Dương công chúa kinh ngạc: “Tiểu Thất khi nào lại suýt chết đuối? Vì sao ta không hề hay biết?”

Hải Triều cố sức khắc chế, không để lộ vẻ kinh hoảng hay chán ghét, chỉ nói: “Là nữ nhi bất cẩn, ngủ quên trong ôn tuyền, càng không thể trách tỷ tỷ.”

Hoàng đế liếc Thọ Dương công chúa một cái, rồi quay sang Hải Triều: “Không cần thay nó nói đỡ.”

Sau đó lạnh nhạt nói với Thọ Dương công chúa: “Trẫm còn có chuyện cần bàn với Tiểu Thất và phò mã, ngươi lui ra trước.”

Thọ Dương công chúa như được đại xá, vẻ mặt lập tức thả lỏng.

Hoàng đế lạnh giọng: “Đừng tưởng như thế là thoát, chuyện của ngươi chưa xong đâu!”

Dù lời nói như vậy, nhưng khí thế trong giọng đã nguội đi rất nhiều.

Trong lòng Hải Triều càng thêm kinh ngạc. Lẽ nào nàng nhìn lầm, thực ra là Hoàng đế rất cưng chiều vị Thất công chúa này? Nhưng nếu đã cưng chiều, vì sao ngay cả chuyện nữ nhi thay đổi cũng chẳng nhìn ra?

Nàng còn đang nghĩ ngợi, Thọ Dương công chúa đã quỳ xuống tạ ân, rồi như chạy trốn mà lui ra.

Chờ nàng đi khỏi, Hoàng đế vẫy tay gọi: “Tiểu Thất, qua đây.”

Hải Triều đè nén cảm giác khó chịu trong lòng, đi gần thêm mấy bước.

Hoàng đế nắm lấy tay nàng. Bàn tay ông ta lạnh lẽo, khô gầy như cành cây già, mu bàn tay bạc trắng hằn đầy gân xanh như mạng nhện. Hải Triều bất giác rùng mình, suýt nữa muốn rút tay về, cố gắng lắm mới kìm nén được.

Hoàng đế dường như cũng nhận ra sự kháng cự, bèn buông tay thở than: “Tiểu Thất, bao năm qua con và phụ hoàng càng lúc càng xa lạ rồi.”

Tống quý phi lại hừ khẽ một tiếng: “Đến cả việc nữ nhi bị đổi cũng không nhận ra, còn bày đặt diễn tuồng từ phụ! Giả nhân giả nghĩa, đúng là buồn nôn!”

Hải Triều sợ Hoàng đế nghe được, vội lấy tay che miệng giả vờ ho khan.

Hoàng đế lại ân cần vài câu, mới đi thẳng vào chuyện chính: “Lúc Cửu nương gặp chuyện, các ngươi cũng ở trong biệt nghiệp của nghiệp chướng kia, có thấy điều gì dị thường chăng?”

Lương Dạ thưa: “Hồi bẩm Thánh nhân, sau khi Lang Gia công chúa gặp chuyện, thần đã đích thân nghiệm xét thi thể, cũng đã kiểm tra qua Tùng Phong Đài nơi xảy ra sự việc, xác thực là công chúa tự mình trèo qua lan can rồi rơi xuống vực.”

Ánh mắt Hoàng đế khẽ động: “Không có ai đẩy?”

Lương Dạ: “Là tự mình rơi xuống.”

Hoàng đế: “Vậy khi nó gặp chuyện, bên cạnh có ai khác chăng?”

Lương Dạ thoáng hiện vẻ khó hiểu.

Hoàng đế giải thích: “Ý trẫm là… liệu có khả năng có người đứng cạnh, bức bách nó nhảy xuống?”

Lương Dạ thưa: “Lang Gia công chúa mượn cớ thay y phục để đánh ngất thị tỳ, khi ấy bên cạnh quả thật không có ai khác.”

Hoàng đế mím chặt đôi môi thành một đường, gật gật đầu, hồi lâu mới than một tiếng: “Cửu nương từ nhỏ mất mẹ, tính tình lại trầm tĩnh, trẫm cũng ít khi quan tâm đến nó, vốn nghĩ đợi thêm mấy năm nữa khi Cửu nương xuất giá sẽ bù đắp thật tốt, chẳng ngờ lại đi như vậy.”

Tuy ngữ điệu có phần ai oán nhưng Hải Triều cứ cảm thấy trong đôi mắt đục ngầu ấy chẳng hề có mấy phần bi thương thật sự.

Hai người nói mấy câu an ủi lấy lệ. Hoàng đế như được an ủi rất nhiều, bèn quay sang Hải Triều: “Phải rồi, nghe nói con từng đến lăng mộ mẫu thân tế bái?”

Hải Triều gật đầu đáp.

Hoàng đế chăm chú nhìn nàng, như muốn từ khuôn mặt nàng tìm ra chút manh mối nào đó: “Đám quan viên thủ lăng có tận tâm hay chăng?”

Chẳng lẽ là đám quan giữ lăng nói gì đó? Nhưng Lương Dạ đã cùng nàng phân tích, những quan viên ấy đều giữ thói ‘nhiều một chuyện chi bằng bớt một chuyện’, hẳn chẳng ai rảnh rỗi đi báo lên Hoàng đế chuyện bọn họ đã khai quan.

Nàng cân nhắc rồi đáp: “Nữ nhi nhìn qua vẫn thấy sạch sẽ tươm tất, phụ hoàng vốn quý trọng mẫu thân, hẳn rằng bọn họ cũng chẳng dám biếng nhác.”

Khóe môi Hoàng đế thoáng nở nụ cười, lắc đầu: “Kẻ bên dưới dù thế nào cũng sẽ tìm đường gian lận, còn phải xem bậc làm quân, làm quan trị thế ra sao.”

Tống quý phi khẽ nhắc: “Lão yêu tinh này không bao giờ nói lời thừa, ngươi nên đáp cẩn thận, tốt là thụ giáo.”

Hải Triều lập tức nói: “Tiểu Thất thụ giáo.”

Hoàng đế vừa lòng gật gù, phất tay lui hết bọn cung nhân thái giám, chỉ giữ lại Phùng công công, rồi vỗ nhẹ mu bàn tay Hải Triều: “Phụ hoàng có một việc muốn nói cùng con.”

Tim Hải Triều khẽ run: “Phụ hoàng cứ nói, Tiểu Thất lắng nghe.”

Hoàng đế nói: “Gần đây trẫm cảm thấy thân thể mỗi ngày một kém đi…”

Hải Triều theo lời Tống quý phi dạy, vội tỏ vẻ lo lắng: “Phụ hoàng chớ nên nói vậy, phụ hoàng đang tuổi xuân thu…”

Hoàng đế mỉm cười ngắt lời: “Không cần nói lời dễ nghe để dỗ ta vui, ta tự biết mình đã già rồi.”

Ông ngừng một chốc, rồi nói: “Trẫm muốn lập Cửu lang làm Thái tử.”

Tống quý phi nhịn không được, thất thanh kêu lên: “Lão yêu tinh này phát điên rồi ư!”

Dù Hải Triều chẳng am hiểu gì về quốc gia chính sự cũng cảm thấy lạ lùng. Những ngày ở trong bí cảnh này, nàng đã rõ Hoàng đế có mười một người con, trong đó đã trưởng thành có ba vị, mà Cửu hoàng tử vẫn còn đang bế ngửa, mẫu thân cũng chẳng xuất thân từ thế gia đại tộc gì. Hoàng đế sao lại bỏ qua trưởng tử mà lập một hài nhi làm Thái tử?

Đang nghĩ vậy, Hoàng đế lại nói: “Cửu lang hãy còn nhỏ, trẫm muốn lệnh con giám quốc, còn phò mã phò chính.”

“Thì ra là vậy,” Tống quý phi chua chát: “Hóa ra hắn muốn truyền ngôi cho ngươi, còn Cửu hoàng tử chẳng qua chỉ là cái bè, đợi ngươi ngồi vững giang sơn, tạo dựng thân tín, thì giết Cửu hoàng tử tự mình xưng vương hay đổi tân quân, chẳng phải đều tùy ngươi định đoạt?”

Lương Dạ không khỏi lộ vẻ kinh ngạc: “Cửu hoàng tử tuổi còn quá nhỏ, e rằng khó phục chúng. Việc này hệ trọng liên can đến quốc vận, xin Thánh nhân tam tư suy nghĩ.”

Hoàng đế khoát tay: “Trẫm đã quyết rồi. Trẫm cùng tiên Hoàng hậu chỉ có một đứa con là Tiểu Thất, chỉ tiếc là nữ nhi, nếu không thì trẫm cũng chẳng khổ sở việc lập trữ này. Tử Minh khỏi cần khuyên nữa, ngươi có năng lực, có thủ đoạn, lại trọng tình nghĩa, chỉ cần hết lòng phò tá Cửu lang và Tiểu Thất là trẫm yên tâm rồi.”

Ông ta dường như mỏi mệt, xoa mắt một cái, rồi hỏi tiếp Lương Dạ: “Đúng rồi, mấy vụ án trong cung kia điều tra đến đâu rồi?”

Lương Dạ thưa: “Vẫn chưa tìm được manh mối, thần hổ thẹn.”

Hoàng đế chẳng hề có chút trách cứ, ngược lại còn an ủi: “Mấy vụ này quỷ dị khó lường, tra án há có thể một sớm một chiều…”

“Việc này, Tử Minh cứ làm hết sức, không cần quá câu nệ.”

Ông ta dừng một thoáng, lại hỏi: “Theo ý của Tử Minh, chuyện Cửu nương gặp nạn lần này có liên hệ gì đến vụ trong cung chăng?”

Lương Dạ trầm ngâm một lát, đáp: “Thần không dám vọng đoán.”

Hải Triều nhân cơ hội chen vào: “Nghe Phùng công công nói trong cung lại có người gặp nạn, nữ nhi và phò mã muốn mau chóng trở về Trường An tiếp tục tra xét.”

Hoàng đế nghiêng mắt quở trách: “Phò mã điều tra án, con chen vào làm gì, án mạng há phải trò chơi? Công chúa giám quốc cần phải ổn trọng, chớ có trẻ con như vậy. Huống hồ, trẫm vừa đến núi Ly con đã vội vã muốn đi, chẳng phải là không muốn bầu bạn cùng ta?”

Hải Triều vừa mở miệng đã bị ông chặn lại, đành đáp: “Nữ nhi tất nhiên phải ở cạnh phụ hoàng rồi.”

Phùng công công đúng lúc tâu xen: “Công chúa hiếu thuận, chỉ muốn thay Thánh nhân chia sầu.”

Hoàng đế nói: “Trẫm hiểu, nhưng án đã xảy ra cũng chẳng gấp trong một hai ngày. Các ngươi ngựa xe nhọc nhằn, hôm nay hãy nghỉ ngơi, mai khởi hành cũng không muộn.”

Hoàng đế đã lên tiếng, Hải Triều chẳng tiện nói thêm, đành gật đầu đáp ứng.

Phùng công công lại thưa: “Quan tài của Cửu công chúa hiện còn đang đặt tại biệt trang của Tam công chúa, tang lễ nên sắp đặt thế nào phải đợi Thánh nhân chỉ thị.”

Hoàng đế xoa ấn đường: “Trẫm đầu bạc tiễn kẻ tóc xanh, thật chẳng còn tâm lực. Để Lễ bộ và Tông chính lo liệu là được.”

Phùng công công: “Phải chăng Thánh nhân đã mệt rồi?”

Hoàng đế: “Vừa bị nghiệp chướng kia chọc giận một hồi, quả thực có chút mỏi mệt. Đoạn quay sang Hải Triều và Lương Dạ: “Hôm nay không giữ các ngươi lại dùng ngọ thiện nữa.”

Hai người lui ra, trở về Hải Đường canh, sau khi dùng bữa xong vẫn còn sớm, Hải Triều bèn gọi Bích Lưu Ly tới dạy cưỡi ngựa bắn cung. Tuy Lương Dạ có vẻ không vừa mắt với Bích Lưu Ly, nhưng nàng chỉ có mấy ngày thời gian, nếu đổi người dạy khác lại phải làm quen từ đầu, tính sao cũng chẳng lợi.

Huống hồ, tuy đêm qua đã nói qua vài lời, song chỉ cần Lương Dạ chưa khôi phục trọn vẹn ký ức ba năm kia, thì giữa hai người vẫn có một sợi dây vô hình khó phân minh. Biện pháp tốt nhất chính là giữ nguyên hiện trạng, giữ lấy khoảng cách.

Lương Dạ là người giữ lời, đã nói sẽ đối đãi với nàng như huynh trưởng, quả nhiên chẳng làm điều gì vượt lễ. Chỉ thỉnh thoảng bất chợt ánh mắt chạm vào nhau, trong lòng nàng lại run rẩy khó tả.

May mà hôm nay hắn còn nửa rương văn thư phải đọc, chẳng có thì giờ nhìn nàng tập bắn, ăn xong bèn vào thư trai.

Không hiểu sao, Hải Triều vẫn không dùng cây cung mới hắn tặng.

Tập luyện hai canh giờ, mồ hôi đẫm lưng áo, chạng vạng đã phủ xuống núi rừng, nàng thu cất cung tiễn, sang suối nước tắm gội, đến khi thay xiêm y sạch sẽ bước ra thì trời đã lên đèn.

Vì Cửu công chúa qua đời, Hoàng đế ủ rũ bãi bỏ yến ẩm, Hải Triều nhờ vậy được rảnh rang, cùng Lương Dạ dùng bữa tối đơn giản.

Tắm gội xong, lại tới giờ lên giường nghỉ.

Hải Triều ngồi bên mép giường, lòng thấp thỏm: “Tối nay ngươi ngủ đâu?”

Lương Dạ đang ngồi bên án xem “Khởi Cư chú” của tiên đế mượn từ Môn hạ tỉnh, nghe vậy khẽ ngẩng mắt, thản nhiên nói: “Nàng cứ ngủ trước đi, ta đọc sách thêm một lát.”

“Hay là ngươi sang gian bên nghỉ ngơi?”

Lương Dạ day day ấn đường, vẻ mặt vẫn như thường: “Liên tiếp xảy ra chuyện, để phòng ngừa bất trắc, tốt hơn đừng tách nhau ra.” Nói đoạn, bèn mỉm cười ôn hòa: “Nếu mệt, ta sẽ gục ngay tại bàn nghỉ một chút, nàng cứ an tâm ngủ trước, khỏi lo cho ta.”

Hải Triều biết chẳng nên quản chuyện hắn, nhưng nhìn sắc mặt hắn tái nhợt, quầng mắt xanh thẫm, vẫn nói: “Không nghỉ thì không còn sức tra án. Ta gọi người mang thêm đệm chăn tới vậy.”

Lương Dạ không phản đối, chỉ điềm tĩnh đáp: “Được.”

Chẳng mấy chốc, thị nữ đã ôm chăn đệm đến. Hải Triều lên giường trước, Lương Dạ dập tắt đèn nến, chỉ để lại một ngọn trên án thư.

Hải Triều vừa chạm gối đã rơi vào cơn buồn ngủ, mí mắt nặng trĩu, ngoài màn chỉ còn ánh lửa chập chờn khiến nàng khó lòng mở mắt.

Thế nhưng, chẳng hiểu vì sao, qua lớp màn trướng dày, nàng vẫn nghe rõ động tĩnh của Lương Dạ, tiếng thở đều và nhè nhẹ, tiếng bút sột soạt trên giấy, tiếng tay áo ma sát khẽ khàng, tiếng nhấp trà nuốt trà khe khẽ, cả nhịp tim đập trong lồng ngực, thậm chí cả tiếng huyết dịch chảy khắp cơ thể… tất thảy đều rõ mồn một, như vang ngay bên tai.

Nàng cảm thấy mình đã quên mất chuyện gì đó nhưng thân thể nặng trịch, đầu óc như han gỉ, chẳng cách nào vận chuyển.

Nửa đêm, nàng bỗng choàng tỉnh. Mở mắt nhìn sang bên cạnh, trong màn tối mờ chẳng thấy bóng dáng Lương Dạ đâu.

Sờ lên chăn đệm bên cạnh vẫn còn chút hơi ấm. Trong màn cũng còn phảng phất hơi thở quen thuộc, như sương sớm thanh lương vương vấn quanh mình.

Hiển nhiên, Lương Dạ mới rời đi không lâu.

Ngay sau đó, bên tai truyền đến tiếng nước ào ào.

Trong phòng vốn không có nước, suối nước nóng cách tẩm điện một đoạn, vậy tiếng nước từ đâu vọng tới?

Nàng ngây ra suy nghĩ một chốc, bỗng chợt hiểu: mình ngủ mà quên lấy phù Sư Khoáng ra khỏi tai, nên mới nghe được cả những thanh âm xa xôi đến thế.

Lương Dạ đi tắm ư? Sao nửa đêm mới đi tắm?

Ngay lúc ấy, tiếng nước càng dữ dội, xen lẫn nhịp tim như sấm, tiếng thở dồn dập nặng nề, hỗn loạn mà đè nén, nghe qua tựa như đang chịu đựng thống khổ.

Không tốt, Lương Dạ đã gặp chuyện!

Tức khắc cơn buồn ngủ của Hải Triều tiêu tán, nàng bật dậy, vội khoác bừa một lớp y phục rồi lao ra ngoài, chạy thẳng về phía suối nước nóng.

***

Chương tiếp theo

One thought on “Mộng hồi Tây Châu – Chương 113

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *