Mộng hồi Tây Châu – Chương 112

Chương 112: Ngọc mỹ nhân (30)

***

Các thị nữ đã dìu mấy vị công chúa trở về chính đường. 

Thọ Dương công chúa đã ngừng khóc chỉ cầm chén trà nóng mà thất thần; Lục công chúa vẫn còn thút thít, Ngũ công chúa thì chau mày thật chặt, không biết đang suy nghĩ điều gì.

Thấy hai người đi vào, Thọ Dương công chúa đặt chén trà xuống, đứng dậy: “Thế nào? Đã khám nghiệm thi thể rồi chứ?”

Hải Triều gật gật đầu.

“Có phát hiện gì không?”

“Trên thi thể giờ chẳng nhìn ra được gì nữa, nhưng hẳn là từ Tùng Phong Đài ngã xuống.”

Niềm hy vọng cuối cùng của Thọ Dương công chúa cũng vỡ vụn. Nàng liếc nhìn canh giờ trên đồng hồ nước hình hoa sen, vừa đi đi lại lại, vừa lẩm bẩm tự nói: “Không biết lúc này xa giá của phụ hoàng đã tới đâu rồi… ta phải nhanh chóng sai người đi bẩm báo… hay là tự tay viết phong thư trước, gửi đi cho phụ hoàng có sự chuẩn bị… quan tài, đúng rồi, phải tìm một cỗ quan tài tốt, trước hết an táng cho ổn thỏa…”

Hải Triều nói: “Tỷ tỷ cứ lo liệu, chúng ta xin cáo lui.”

Thọ Dương công chúa bừng tỉnh, vội nắm chặt lấy tay nàng, hoảng hốt hỏi: “Các muội muốn đi đâu?”

“Việc này có liên quan đến hai vụ án trong cung, phò mã đang phụng chỉ tra xét, một số manh mối ở trong kinh thành…” Hải Triều đáp.

Trong lòng nàng chỉ muốn lập tức hồi kinh: một là để xem thử pho tượng ngọc trong Phật đường có biến hóa gì không, hai là cũng vì lo lắng cho Lục Uyển Anh và Trình Hàn Lân. Tuy bên cạnh họ có thị vệ bảo hộ, nhưng năng lực của pho tượng ngày một cường đại đến mức quỷ dị, nàng thật sự sợ có biến cố bất ngờ.

“Chẳng bao lâu nữa phụ hoàng sẽ tới núi Lê, ta phải mang tội nghênh tiếp, Tiểu Thất, muội đã hứa sẽ cầu tình thay ta, không thể bỏ rơi tỷ tỷ lúc này !” Thọ Dương công chúa tha thiết nói.

Hải Triều bảo: “Ngũ tỷ và Lục tỷ đều ở đây, phụ hoàng cũng biết chuyện Cửu nương tự vẫn có điều khả nghi…”

“Không, không!” Thọ Dương công chúa lắc đầu cắt lời, “Phụ hoàng thương muội nhất, chỉ có lời của muội mới hữu hiệu, Tiểu Thất, muội nhất định phải cứu tỷ!”

Lục công chúa cũng lên tiếng: “Thất nương, phụ hoàng sắp đến rồi, muội cùng phò mã vẫn nên ra nghênh kiến thì hơn, nếu bỏ đi không cáo từ e rằng khiến phụ hoàng không vui.”

“Lục nương nói đúng.” Thọ Dương công chúa lập tức phụ họa.

Hải Triều đang còn cân nhắc, thì có nội thị tiến vào bẩm: “Khởi bẩm các vị công chúa, Thánh nhân sai Phùng công công tới truyền khẩu dụ.”

Sắc mặt Lương Dạ hơi thay đổi, Hải Triều thấp giọng hỏi hắn: “Làm sao vậy?”

Lương Dạ nói: “Trong cung có lẽ đã xảy ra chuyện.”

Hải Triều ngạc nhiên: “Vì sao?”

“Nếu chỉ là truyền khẩu dụ, không cần phải đặc biệt phái Phùng công công tuổi cao đến đây.”

Hải Triều gật đầu, trong lòng lại nặng nề thêm.

Mặt mày Thọ Dương công chúa tái nhợt, vội vàng đi vòng quanh: “Phụ hoàng đến nhanh như vậy…”

Lục công chúa nói: “Tam tỷ đừng hoảng loạn, trước mời Phùng công công vào đã.”

Thọ Dương công chúa lúc này mới sực nhớ: “Đúng, mau mời người vào.”

Chẳng bao lâu Phùng công công bước vào chính đường, hành lễ với các vị công chúa và Lương Dạ. Ông vốn là người nhạy bén, chưa cần vào cũng đoán được không khí trong này bất thường, song mặt không lộ vẻ gì mà vẫn bình thản tuyên đọc thánh chỉ:

“Thánh nhân ngự giá sắp tới núi Lê, đặc biệt sai nô tài đến đây mời chư vị công chúa đi trước cùng diện kiến.”

Ông đảo mắt một vòng, bỗng khựng lại, thoáng lộ vẻ kinh ngạc: “Nô tài nghe nói Cửu công chúa cũng ở trong phủ Tam công chúa, sao lại không thấy?”

Thọ Dương công chúa đành cứng giọng đáp: “Không dám giấu Phùng công công, Cửu nương sáng nay đã xảy ra biến cố…”

Rồi đem chuyện Cửu công chúa ngã từ cao đài mà mất mạng thuật lại một lượt. Phùng công công quả nhiên kinh hãi, lập tức đến gian phòng bên xem thi thể, rồi lau nước mắt trở về, đôi mắt đỏ hoe nói: “Nô tài sẽ lập tức tấu báo Thánh nhân. Tam công chúa hãy tạm lo việc khâm liệm cho Cửu công chúa, chọn nơi an táng tạm thời. Còn tang sự chi tiết, vẫn phải đợi Thánh nhân cùng Tông chính, Lễ bộ thương nghị rồi định đoạt.”

Thọ Dương công chúa vội vàng đáp ứng, lại đem tấu thư nhận tội vừa viết xong trao cho ông, nhờ chuyển dâng lên Hoàng đế.

Lục công chúa nói: “Xin Phùng công công khuyên nhủ phụ hoàng, chớ để người bi thương quá độ.”

Phùng công công nhận thư, nhưng chưa vội rời đi, quay sang Hải Triều và Lương Dạ: “Thất công chúa, Lương phò mã, có thể mượn bước ra ngoài nói đôi lời với nô tài?”

Hải Triều cùng Lương Dạ nhìn nhau, rồi theo ông ta ra hành lang.

“Có phải trong cung đã xảy ra chuyện?” Hải Triều hỏi.

Phùng công công thở dài: “Thất công chúa quả thật mắt sáng như đuốc. Đêm qua trong cung đúng là đã có biến. Trong đợt tú nữ mới tiến vào Dịch đình, có người đã không còn…”

Tuy Hải Triều đã có dự liệu, nhưng tim vẫn đập thình thịch như trống dồn: “Sao lại không còn?”

Phùng công công: “Là cái chết giống hệt Tống quý phi, Tiết ngự nữ… đều tại lão nô vô dụng, việc công chúa cùng phò mã đã dặn dò vậy mà vẫn xảy ra sơ suất.”

Lương Dạ nói: “Việc này phòng không xuể, Phùng công công không cần tự trách.” Ngừng một chút, lại hỏi: “Có ghi rõ họ tên, quê quán của nữ tử bị hại không?”

Phùng công công gật đầu: “Lão nô đã sai người chép lại tịch sách của tiểu nương tử ấy, xin phò mã xem qua.”

Lương Dạ nhận lấy tờ tịch sách liếc qua, nói lời cảm tạ rồi hỏi tiếp: “Thánh nhân bình an chứ?”

Phùng công công cau mày: “Trong cung liên tiếp xảy ra chuyện, Thánh nhân cũng có phần lo lắng. May mà nữ tử kia chưa kịp được sủng hạnh… ai ngờ nay lại đến lượt Cửu công chúa… Thất công chúa hãy mau đến hành cung để trấn an Thánh nhân.”

Rồi ông nhìn sang Lương Dạ: “Thánh nhân gửi gắm kỳ vọng vào phò mã, tất sẽ hỏi đến tiến triển việc tra án. Phò mã nên có chút chuẩn bị để ứng đối.”

Lương Dạ khẽ gật đầu: “Đa tạ Phùng công công nhắc nhở.”

Phùng công công vội nói: “Không dám, không dám.” Khách sáo thêm mấy câu, rồi cáo từ quay về phục mệnh.

Như vậy, hai người chẳng thể nhắc lại chuyện lập tức hồi kinh, chỉ đành đi đến hành cung trước.

Trở lại chỗ ở, Hải Triều sai thị nữ và tùy tùng thu xếp hành trang, chuẩn bị ngựa xe. Mọi thứ đã đâu vào đấy, sắp sửa ra cửa thì có thị vệ từ kinh thành chạy gấp đến, dâng cho Lương Dạ mấy phong thư, một chiếc hộp nhỏ cùng một chiếc rương gỗ to tướng.

Lương Dạ bảo người khiêng tất cả lên xe ngựa. 

Chờ hai người cùng ngồi yên ổn trong xe, Hải Triều mới hiếu kỳ hỏi: “Những thứ này là gì vậy?”

Lương Dạ mở hộp nhỏ trước, bên trong toàn là quyển trục cùng giấy tờ rời rạc, có tờ đã ố vàng, tỏa ra mùi cũ kỹ.

“Là những hồ sơ cũ ta sai thuộc hạ ở Đại Lý Tự điều tra.” Lương Dạ nói, “Lúc mới đến, chưa biết trong Đại Lý Tự hay trong công chúa phủ ai đáng tin, nên phí mất một khoảng thời gian.”

Hải Triều không khỏi có chút khâm phục hắn, thì ra ở nơi nàng không thấy, hắn đã bỏ công sức nhiều đến vậy.

“Là hồ sơ gì?” Hải Triều hỏi.

Lương Dạ lấy từ trong ngực ra một phong thư, liếc qua: “Ta bảo hắn tra về tiên Hoàng hậu cùng vài người đã chết, còn có lai lịch của tăng nhân Trúc Tuệ… chỉ là có vài thứ chưa tìm ra được, một số hồ sơ xưa đã bị người cố ý hủy đi, không để lại dấu vết.”

Hắn khẽ nhíu mày: “Vụ án Vạn chiêu nghi năm đó quả thật chưa từng được Đại Lý Tự thẩm nghiệm… nhưng khi đó trong cung có truyền một lão ngỗ tác của Đại Lý Tự vào khám nghiệm thi thể, ông ta vốn có thói quen ghi chép riêng kết quả giám nghiệm…”

Vừa nói hắn vừa lục lọi trong hòm, rút ra một tờ giấy gai đã cũ nát ngả vàng.

Hải Triều ghé lại xem, trong ghi chép không nói đến thân phận người chết, chỉ có ngày tháng giám nghiệm và nguyên nhân tử vong, so ra đều khớp với Vạn chiêu nghi. Hơn nữa, lão ngỗ tác cẩn thận kia còn vẽ cả sơ đồ đơn giản, đánh dấu vị trí và chiều dài các vết thương.

Nàng xem một lúc, chợt phát hiện điểm lạ: “Ồ, những vết thương này không giống với của Tống quý phi và Tiết ngự nữ, hơn nữa đều ở trên mặt?”

Lương Dạ khẽ bóp mi tâm: “Quả thật khác biệt.”

Ban đầu khi nghe Phùng công công nói, họ đã mặc nhiên cho rằng cái chết của Vạn chiêu nghi cũng giống như Tống quý phi hay Tiết ngự nữ, nay xem kỹ hồ sơ mới thấy án mười mấy năm trước chẳng đồng nhất với hai vụ gần đây.

“Nhưng khác chút này thì có ảnh hưởng gì đâu, dù sao mặt cũng đã bị hủy rồi.” Hải Triều nói.

Lương Dạ xếp lại tờ giấy vào hòm, rồi lấy các bản hồ sơ khác ra chăm chú đọc tiếp.

Hải Triều lại tò mò, khẽ gõ tay lên chiếc rương gỗ mun lớn chạm bạc khảm vàng lộng lẫy: “Thế còn trong này là gì?”

Lương Dạ ngẩng mắt lên: “Mở ra xem đi.”

Hải Triều mở khóa vàng, nhấc nắp, không kìm được khẽ “A” một tiếng. Trên gấm đen, lặng lẽ nằm một cây cung trắc tuyệt đẹp, toàn thân sơn đỏ thắm, mỹ lệ đến nỗi làm hô hấp nàng cứng lại.

“Là cho ta sao?”

Lương Dạ gật đầu: “Thời gian gấp gáp, không kịp tìm thợ danh tiếng chế tác, chỉ đành bảo người tìm cho một cây. Nàng dùng tạm vậy.”

Hải Triều đã cầm lấy cây cung, thử kéo dây: “Cây cung tốt thế này sao lại gọi là dùng tạm.”

Càng nhìn nàng càng yêu thích không nỡ buông tay, mân mê một hồi thì bỗng dưng thấy có gì đó không ổn…

Hắn đã sai người đi mua cung từ khi nào? Truyền tin về kinh thành cũng mất nửa ngày, mà muốn tìm được cây cung hợp ý, nào phải chuyện một sớm một chiều, ít nhất cũng cần một hai ngày. Vậy thì, há chẳng phải ngay từ khi nàng mới bắt đầu học bắn, hắn đã cho người đi tìm cung rồi ư?

Hải Triều bỗng thấy cây cung kia như nóng cháy trong lòng bàn tay, vội đặt trở lại trong hòm.

“Làm sao vậy?” Lương Dạ khẽ nhướng mắt.

“Ta chỉ vừa mới học bắn tên, dùng cây cung này e rằng quá phí, chi bằng vẫn dùng cây cũ.”

“Còn mấy ngày nữa là rời bí cảnh rồi, vốn dĩ cũng chẳng mang ra ngoài được, không cần tính toán tiết kiệm.”

Không biết vì sao, nàng như nghe ra trong lời hắn thoáng mang chút chua xót.

“Cây cung ta đang dùng cũng tốt, thuận tay lắm.”

“Cây đó đã cũ.” Lương Dạ cụp mắt xuống, “Ném đi.”

Hải Triều: “…… Đó là mượn của người ta.”

Lương Dạ mỉm cười ôn hòa: “Vậy thì trả lại cho người ta.”

Hải Triều: “Nhưng……”

Hắn liếc mắt về phía cây cung trắc sơn đỏ nằm trên đệm gấm, ánh mắt lạnh đi như thể ghét bỏ nó chẳng có ích gì: “Cây cung này không hợp ý sao? Vậy thì vứt đi, tìm một cây khác.”

“Cây này rất tốt.” Hải Triều vội nói.

“Thích không?”

“Thích, đa tạ ngươi.”

“Thích là tốt rồi.” Hắn lại cúi đầu chuyên chú vào văn thư trước mặt.

*

Xe ngựa chòng chành trên đường núi, Hải Triều như thường lệ lại thấy cơn buồn ngủ kéo tới, thiếp đi một chốc. Đến khi mơ màng tỉnh lại, xe ngựa đã tới gần hành cung núi Lê.

Nàng vươn vai ngáp một tiếng, thấy Lương Dạ vẫn đang đọc văn thư, bèn hỏi: “Có phát hiện gì sao?”

Lương Dạ thu quyển trục trong tay lại, khẽ gật đầu: “Có lẽ trước đây chúng ta đã nghĩ sai rồi.”

Hải Triều lập tức tỉnh táo: “Ý ngươi là sao?”

“Trước đây chúng ta mặc định cho rằng pho tượng ngọc chọn người chết là vì dung mạo giống tiên Hoàng hậu, kỳ thực không phải.”

Hắn dừng một chút: “Tiên Hoàng hậu cùng mẫu tộc của Vạn chiêu nghi, truy ngược vài đời thì đều là đồng tông, hộ tịch gốc ở vùng Thương Hà, Lạc An Châu.”

Hải Triều chau mày: “Nữ tử đêm qua gặp nạn, chẳng phải cũng là người Lạc An Châu sao? Chẳng lẽ cũng từ nơi đó?”

Lương Dạ gật đầu. Cửu công chúa là nữ nhi Vạn chiêu nghi, kế thừa huyết mạch của mẫu thân, tất nhiên cũng truy nguyên về cùng một cội.

“Thế còn Tống quý phi và Tiết ngự nữ?”

“Tiết ngự nữ được cha mẹ nuôi thu dưỡng, vốn cùng tộc với Vạn chiêu nghi. Nhìn dung mạo nàng ta có lẽ chính là người đồng tộc.” Lương Dạ day day mi tâm, “Chúng ta vốn tưởng nguyên nhân là dung nhan nhưng có lẽ là huyết mạch.”

“Chỉ duy có Tống quý phi là ngoại lệ.”

Tống quý phi vốn đang yên lặng trong hộp ngọc nghỉ ngơi, nghe nhắc đến mình thì lập tức tỉnh táo: “Bản cung làm sao?”

Hải Triều hỏi: “Nương nương quê quán ở đâu?”

Tống quý phi: “Bản cung dĩ nhiên sinh ra và lớn lên ở Trường An.”

Lương Dạ thản nhiên nói: “Phụ thân Tống quý phi là người Liêu Đông, mẫu thân là người Tiên Ti, chẳng hề liên can gì tới Lạc An Châu.”

Tống quý phi: “…… Bản cung từ khi sinh ra đã ở Trường An, hộ tịch cũng tại Trường An, dù có nói thế nào đi nữa, bản cung cũng là người Trường An!”

Hải Triều không hiểu nổi sự cố chấp của nàng ta với hộ tịch Trường An, chỉ qua loa trấn an đôi câu, rồi đưa nàng trở lại trong hộp.

“Vậy thì bỏ qua Tống quý phi.” Hải Triều nghĩ ngợi, “Còn lại mọi người đều có mối liên hệ với Lạc An Châu? Nơi đó rốt cuộc có gì?”

Lương Dạ nói: “Khu vực Thương Hà thuộc Lạc An Châu, thời Chu gọi là ấp Mạch Khâu, chính là nơi có dòng sông Trích Thủy.”

“Trích Thủy? Đó là gì?”

“Trong giáp cốt văn thời Ân Thương, thường thấy ghi Trích Thủy. Người Thương có tục hiến tế cho con sông này.”

Hải Triều chợt nhớ đến những văn tự cổ quái khắc trên tượng ngọc, Lương Dạ từng phỏng đoán rằng những chữ ấy liên quan đến hiến tế người sống.

Đang suy ngẫm, chợt nghe Lương Dạ nói: “Người Thương kính quỷ thần, trước có quỷ sau đó mới có lễ, quen dùng người sống tế hiến. Những việc này có lẽ có liên hệ.”

Sau lưng Hải Triều lạnh buốt, bất giác quấn chặt áo lông trên người.

“Đúng rồi, còn vị pháp sư Trúc Tuệ kia thì sao? Có tra được lai lịch không?”

Lương Dạ nói: “Lai lịch rất đáng ngờ. Trên độ điệp ghi là chùa Pháp Tràng, nhưng tăng nhân ở chùa Pháp Tràng lại không biết có cao tăng như vậy, hiển nhiên độ điệp kia là bổ sung sau khi vào kinh. Nhưng ông ta có thể nhập cung là do trụ trì Pháp Tràng tự tiến cử. Mà thời điểm ông ta vào cung lại trùng hợp khác thường.”

“Là khi nào?”

“Khoảng hai tuần sau khi tiên Hoàng hậu mất, ông ta vào cung. Sau đó hai ngày, phụ tử Dư gia bắt đầu chạm khắc tượng ngọc.”

***

Chương tiếp theo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *