Mộng hồi Tây Châu – Chương 108

Chương 108: Ngọc mỹ nhân (26)

***

Trong chiếc quan tài trống rỗng lại tìm được một sợi tóc đã đủ khiếp người, huống chi đó lại là một sợi bạc trắng, càng thêm phần khó hiểu. 

“Lúc tiên Hoàng hậu băng hà mới chưa tới ba mươi tuổi, sao lại có tóc bạc?” Hải Triều lấy làm kỳ lạ. Dẫu cho tóc bạc sớm, trong mái tóc đen lẫn dăm ba sợi bạc, thì sao vừa khéo lưu lại trong quan tài được? Thế nào cũng không hợp lý.

“Ra ngoài rồi nói tiếp.” Lương Dạ vừa nói, vừa dùng khăn tay gói sợi tóc bạc lại cất đi, lập tức gọi người giữ lăng đến, vẫn bảo họ bịt mắt khôi phục lại nắp quan và nắp quách.

Lăng thư lệnh cung kính tiễn họ đến tận cửa Chu Tước, hiển nhiên như trút được gánh nặng. 

Lương Dạ đỡ Hải Triều lên xe ngựa, ngoảnh lại nhìn Lăng thư lệnh một cái đầy thâm ý: “Chuyện hôm nay…” 

Chưa đợi y nói hết, Lăng thư lệnh đã nghe tiếng đàn biết nhã ý: “Thánh nhân triều vụ bận rộn, trăm công ngàn việc, mấy chuyện nhỏ thế này hẳn là không cần tấu trình nữa chăng?” 

Lương Dạ gật đầu: “Các hạ tự mình định đoạt là được, có điều gần đây việc việc rối ren, Thánh nhân cũng đã phiền muộn chẳng ít. Làm bề tôi, có thể bớt cho Thánh nhân một phần phiền nhiễu, ấy cũng là chia ưu, các hạ nói có phải không?” 

Lăng Thự lệnh gật đầu như giã tỏi: “Tự nhiên, tự nhiên.”

Lương Dạ mỉm cười nhạt: “Các hạ tận trung cương vị, hoàng lăng chỉnh tề nghiêm khiết, công chúa vô cùng mãn ý. Ngày mai Thánh giá ngự giá hành cung ở núi Lê, công chúa cùng ta nhất định sẽ bẩm tấu rõ ràng.” 

Lăng thư lệnh vui mừng khôn xiết, liên tục cúi người: “Đa tạ phò mã nói đỡ.”

Nhìn theo đoàn người Thất công chúa rời khỏi cửa Chu Tước, Lăng thư thừa thì thầm với thượng quan: “Không phải ngày lễ tiết, Thất công chúa đến bái tế tiên Hoàng hậu thì thôi, sao còn phải vào Huyền cung khai quan, thật quá quái dị…” 

Lăng thư lệnh trừng mắt: “Chuyện không nên quản thì bớt quản, việc quái dị nhà thiên gia nhiều lắm, ngươi có mấy cái đầu mà dám xen vào! Rảnh thì mau đi quét dọn hiến điện cho ta!” 

Lăng thư thừa co rụt cổ, không dám hé môi thêm.

Đợi Lương Dạ lên xe, buông rèm xuống, Hải Triều lập tức lấy tượng ra đặt lên gối, khẽ vỗ mặt nàng: “Nương nương, ngươi thế nào rồi?” 

Tống quý phi bất chợt giật mình tỉnh dậy: “Ôi chao, ôi chao…” 

Hải Triều thở phào: “Người sao vậy?” 

Tống quý phi yếu ớt lật mắt trắng, thoi thóp nói: “Bổn cung với lão yêu phụ kia chắc chắn là bát tự xung khắc, vừa đặt chân đến mộ phần bà ta thì mắt tối sầm ngất đi. Yêu phụ kia không muốn cho bổn cung làm hoàng hậu, hại chết bổn cung thì thôi, chết rồi còn không buông tha bổn cung… bổn cung với ả quyết chẳng thể dừng tay… đều là quỷ cả, dựa vào đâu mà bổn cung vẫn bị bà ta đè đầu cưỡi cổ chứ…” 

Hải Triều nghe nàng oán hận mắng không dứt, chỉ đành cắt lời: “Ngươi ngất khi nào?” 

Tống quý phi: “Chính là lúc bước qua cánh cửa đá cuối cùng… Tiểu yêu quái, ngươi cũng thi triển chút thuật pháp với bổn cung, để bổn cung hóa thành lệ quỷ cùng ả quyết chiến một trận!” 

Hải Triều: “…… Ngươi bây giờ đã rất giống lệ quỷ rồi.”

Đã hỏi không ra điều gì, Hải Triều thẳng tay nhét Tống quý phi còn đang lải nhải vào sau túi, tức thì tai nàng thanh tịnh hơn nhiều.

Xe ngựa lộc cộc chạy ra khỏi con đường dẫn vào hoàng lăng, hai bên tượng đá dần khuất xa. 

“Dậy sớm đã mệt rồi, trên đường chợp mắt chút đi.” Lương Dạ nói. 

Hải Triều khẽ gật đầu, nhắm mắt tựa vào vách xe, nhưng lại chẳng buồn ngủ, chiếc quan tài trống rỗng kia cứ mãi lởn vởn trong tâm trí.

“Không ngủ được?” Lương Dạ hỏi, “Đang nghĩ gì?” 

Hải Triều dứt khoát mở mắt, chống cằm, chau mày: “Ta đang nghĩ xác tiên Hoàng hậu đã đi đâu.” 

Nàng ngừng một thoáng: “Còn cả thi thể mà Dư Nhị Lang thấy. Hai huynh đệ bọn họ bị đưa vào địa cung trước đó, phụ thân hắn đã tạc tượng một thời gian, theo lý mà nói thì thi thể hoàng hậu đã sớm mục rữa, sao bọn họ nhìn thấy lại giống như người sống?”

Nàng từng thấy thi thể gần giống người sống nhất là xác Hạ Sa trong mật cảnh trước kia, nhưng đó là vì ngâm trong hồ lạnh sâu trong núi, lại thêm tác dụng của Đăng Tiên Lăng.

“Có phải dùng thuốc gì không?” Hải Triều nghi hoặc hỏi. 

Lương Dạ trầm ngâm giây lát: “Dùng nhiều hùng hoàng, hoặc rót thủy ngân có thể phòng thi thể thối rữa, nhưng cả hai cách đều chẳng thể khiến xác chết sống động như thật. Nếu lời Dư Nhị Lang không giả, thì thi thể kia hẳn không thuộc hai loại ấy.”

Hải Triều: “Đúng rồi, huynh đệ họ từng bị đưa đến một địa cung, có khi nào chính là hoàng lăng?” 

Lương Dạ lắc đầu: “Hẳn không phải nơi này, thời gian không khớp mà bố cục trong Huyền cung cũng khác. Dẫu xác thân có được chuyển sang tẩm thất khác thì sau khi hoàn tất việc điêu khắc, ắt cũng nên hoàn trả về quan tài mới phải.”

“Còn nữa, sợi tóc bạc kia là từ đâu ra…” Nàng chợt nhớ đến Tống quý phi, lại moi pho tượng ra: “Nương nương, tiên Hoàng hậu có tóc bạc không?” 

Tống quý phi hừ một tiếng, bĩu môi, chẳng thèm để ý đến nàng. 

“Được rồi, được rồi, lần sau ta không bịt miệng người nữa.” Hải Triều thuận miệng dỗ dành, bế pho tượng lên khẽ lắc lắc. 

“Đừng có lắc! Tóc bị ngươi lắc rối cả rồi!” 

Pho tượng tất nhiên chẳng có tóc mà cũng chẳng thể rối, Hải Triều biết điều, không nói toạc ý nghĩ ấy ra.

Tống quý phi nói: “Bổn cung nhập cung thì yêu phụ kia đã chết rồi. Nếu chẳng phải bà ta chết, bổn cung cũng đâu vào được… nhưng bổn cung từng thấy họa tượng của bà ta, nghe nói là do một vị họa sĩ Hàn lâm tay nghề cao siêu vẽ ngay trước khi chết không lâu…” Nghĩ đến chính mình, nàng lại không khỏi thương xót thân phận: “Đáng thương thay bổn cung đến một bức chân dung ra hồn cũng chẳng để lại, hương tàn ngọc nát, chôn hồn nơi u minh…”

Hải Triều: “…… Thôi được, chờ khi về kinh thành, ta sẽ tìm người vẽ cho ngươi một bức.” 

Tống quý phi lập tức hớn hở: “Phải nhớ tìm vị họ Triệu ấy, hắn vẽ người đẹp lắm, còn nữa, phải vẽ bổn cung trẻ trung hơn một chút…” 

“Biết rồi, biết rồi,” Hải Triều nói, “Nói mới nhớ, chẳng phải người ta đều bảo tiên Hoàng hậu chết vì bệnh sao, bà ta mắc bệnh gì?”

“Thì ra các ngươi cũng chẳng biết ư? Nghe nói là chết vì ôn dịch, nhiều cung nhân hầu cận bà ta cũng lây bệnh, ngay trong cung của yêu phụ đó cũng có mấy cung nhân thái giám mắc phải mà chết,” Tống quý phi chớp chớp mắt, “Thế nhưng bổn cung thấy việc này có điều khả nghi.”

“Vì sao?” Lương Dạ ngẩng mắt. 

“Các ngươi nghĩ xem,” Tống quý phi nói, “Trong cung, lần nào ôn dịch chẳng chết cả đống người? Bà ta là hoàng hậu, thường ngày tam cung lục viện đều phải đi thỉnh an, sao các phi tần khác chẳng hề hấn gì, các cung khác cũng không ai nhiễm bệnh chết. Ta thấy cái gọi là ôn dịch, chẳng qua chỉ là cái cớ để che giấu chân tướng cái chết thôi!”

Trong lòng Hải Triều chợt thắt lại: “Chân tướng cái chết là gì?” 

“Làm sao bổn cung biết được.” Tống quý phi đáp, “Khi đó bổn cung còn đang bán rượu ở phố Tây kia mà!”

Nàng ngừng một thoáng: “Nhưng các ngươi thử nghĩ xem, nếu chỉ là nguyên nhân chết bình thường, cần gì phải bịa ra cái cớ ôn dịch? Tất nhiên là bởi vì như thế có thể thuận nước đẩy thuyền, trừ bỏ luôn không ít cung nhân thái giám biết chuyện!”

Hải Triều phải thừa nhận, Tống quý phi nói rất có lý. 

“Những lời này ngươi đã từng nói với ai chưa?” Lương Dạ bỗng hỏi. 

Ánh mắt Tống quý phi có chút lẩn tránh: “Bổn cung đâu phải kẻ không biết nặng nhẹ, biết lời nào phải chôn trong bụng, sao lại có thể nói ra ngoài…” 

Hải Triều thấy vẻ mặt nàng khác lạ: “Không nói ra ngoài nhưng có từng lỡ lời trong cung của ngươi không? Ví như với thái giám tâm phúc của ngươi?”

Dẫu là Tống quý phi cũng bị lời thẳng thắn ấy làm cho đỏ mặt xấu hổ: “Con tiểu yêu tinh này, ngươi nói cái gì thế hả!” 

Hải Triều: “Ngươi chỉ cần nói có từng nói cho Lâm Hạc Niên nghe không.” 

Tống quý phi rũ mắt, lầu bầu: “Bổn cung không nhớ rõ, có lẽ đã từng nhắc qua… nhưng Lâm Hạc Niên miệng rất kín gan lại nhỏ, tuyệt đối sẽ không dám truyền ra ngoài…”

Hải Triều liếc nhìn Lương Dạ. Nàng vẫn luôn cho rằng cái chết của Tống quý phi là bởi dung mạo giống với tượng ngọc, bị giết để bổ khuyết tượng ngọc, chuyện này hầu như không cần phải nói. Nhưng nếu không phải thì sao? Nếu tượng ngọc giết nàng vì một nguyên nhân khác thì sao?

Tống quý phi cũng vì im lặng của hai người mà chợt nghĩ tới điểm này. 

Nàng trừng to mắt: “Chẳng lẽ bổn cung và Hạc Niên là vì chuyện này mà bị diệt khẩu? Nhưng việc này rất nhiều người cũng có thể nghĩ ra, chỉ là chưa nói ra miệng mà thôi…” 

Lương Dạ khẽ gật đầu: “Đúng vậy. Ngươi hãy nghĩ lại xem còn có chuyện gì khác nữa không.” 

Tống quý phi cau mày trầm tư rất lâu, cuối cùng vẫn lắc đầu: “Thực sự không nhớ ra.” 

Hải Triều thở dài: “Nếu ngươi nghĩ được điều gì, nhớ báo cho chúng ta.”

Xe ngựa xóc nảy suốt dọc đường, Hải Triều rốt cuộc cũng không kìm được mà thiếp đi.

Khi tỉnh lại thì đã gần lúc hoàng hôn, nàng vén rèm xe nhìn ra ngoài, thấy quần phong phủ tuyết trắng xóa, dưới ánh tà dương dát lên một tầng sắc vàng rực rỡ.

Đoàn người đến trước cửa biệt trang, có nội thị của Thọ Dương công chúa tới bẩm báo, nói rằng hôm nay công chúa săn được một con hoẵng, đêm nay mở yến ở Dao Nguyệt Đài, mời Thất công chúa cùng phò mã đến dự.

Hải Triều nghĩ một lát: “Ta có hơi mệt, tối nay không đi nữa, bảo tỷ tỷ và mọi người cứ vui chơi đi.” 

Nội thị trở về phục mệnh, đoàn người Hải Triều thì quay lại chỗ ở.

Vừa xuống xe, nàng đã lập tức nhìn thấy trong đám gia phó giữa sân có thiếu niên người Hồ sống mũi cao, mắt sâu, đôi đồng tử xanh biếc độc đáo phản chiếu hoàng hôn, lóe lên sắc xanh ngọc ánh vàng như mắt mèo.

Nàng như lệ thường khoác tay Lương Dạ xuống xe, Bích Lưu Ly ân cần bước lên, cùng những gia phó khác bưng các hòm rương, bức trướng, mấy chiếc ghế giường từ xe xuống.

Hải Triều xưa nay ưa những kẻ làm việc nhanh nhẹn, gọn gàng, trong lúc bốn mắt giao nhau khẽ nở nụ cười với hắn.

Bích Lưu Ly ôm hòm y phục của nàng bước lại gần: “Công chúa hôm nay có muốn cưỡi ngựa không?”

Lương Dạ khẽ chau mày: “Công chúa đường dài ngựa xe, cần nghỉ ngơi.”

Bích Lưu Ly lập tức lộ vẻ áy náy, hốt hoảng như sắp khóc: “Nô… nô suy nghĩ không chu toàn…”

“Không sao.” Hải Triều an ủi, “Trên xe ta đã chợp mắt một giấc, giờ không mệt. Nhân lúc mặt trời chưa lặn, luyện thêm một hồi cũng tốt.”

Thiếu niên người Hồ lập tức mừng rỡ, hắn vốn đã tuấn tú, một khi vui mừng, cả gương mặt dường như phát sáng, lúm đồng tiền như chứa đầy mật rượu.

Hải Triều thấy mỹ nhân, tâm tình cũng rạng rỡ, quay sang nói với Lương Dạ: “Ngươi về trước thay y phục nghỉ ngơi đi, ta sẽ cưỡi ngựa thêm một lát.”

Bích Lưu Ly nói: “Hôm qua công chúa chẳng phải nói muốn học bắn cung sao? Còn chưa tới nửa canh giờ mới tối, nô có thể dạy công chúa tập nắm cung, sớm mai sẽ có thể học bắn bia rồi.”

“Hay quá!” Hải Triều hớn hở nói.

Đối với nàng, bắn cung còn hữu dụng hơn cưỡi ngựa. Dân thường khó có cơ hội cưỡi ngựa, nhưng cung tên lại chẳng khó có được. Biết bắn cung, bất luận đi săn hay phòng thân đối địch, đều rất hữu dụng.

Lương Dạ nhìn họ vừa nói vừa cười đi vào trong viện, đứng nguyên chỗ một lúc, rồi mới chậm rãi quay về Đông Hiên.

Một phen luyện tập, đã tới lúc thắp đèn. Có thị nữ đến thưa: “Thọ Dương công chúa sai người đưa sang một chiếc đùi hoẵng, phò mã hỏi công chúa có muốn cùng nướng ăn không?”

Hải Triều vừa học tư thế khai cung, Bích Lưu Ly đang giúp nàng chỉnh lại, nghe vậy liền nói: “Không ngờ đã tới giờ này, công chúa có muốn dùng cơm không?”

Hải Triều ngẫm nghĩ rồi lắc đầu: “Ta luyện thêm một hồi nữa, bảo phò mã cứ ăn trước, không cần đợi ta.” Chỉ khi động tác được khắc sâu, thân thể mới ghi nhớ, nếu không sáng mai lại phải tập lại từ đầu.

Rồi quay sang hỏi Bích Lưu Ly: “Ngươi có đói không?”

Bích Lưu Ly vẻ mặt mừng rỡ như được sủng ái: “Đa tạ công chúa quan tâm, nô không đói… công chúa chờ đã, vai phải thả xuống thêm một chút…” Vừa nói, hắn vừa nhẹ nhàng ấn vai phải nàng xuống.

Cứ thế tập luyện cho đến khi trăng lên giữa trời, Hải Triều mới đưa cung cho Bích Lưu Ly, xoay xoay cánh tay và bả vai đã tê mỏi, thân thể này quá yếu ảnh hưởng đến độ vững của việc khai cung, cũng chẳng dùng nổi cung nặng. Nếu là thân thể trước kia của nàng, cung ba thạch cũng chẳng phải vấn đề.

Bích Lưu Ly không nhận cung, chỉ nói: “Cây cung này là nô thắng về, công chúa dùng vừa tay, nếu không chê, xin cứ giữ lại.”

“Ngươi thắng được thế nào?” Hải Triều hỏi.

Trong mắt Bích Lưu Ly hiện lên chút kiêu hãnh: “Nô cùng thị vệ phủ Thọ Dương công chúa đánh cuộc, so tài kỵ xạ với kẻ mạnh nhất trong số họ, thắng được cây cung tốt này.”

“Đây là công sức ngươi vất vả thắng được, hãy giữ lại mà dùng.” Hải Triều nói.

Bích Lưu Ly lại đẩy trả: “Cây cung này nô dùng quá nhẹ, chờ về kinh, công chúa ban cho nô cây khác được không?” Nói đoạn, hắn nghiêng đầu cười, để lộ hai chiếc răng nanh tinh nghịch.

Hải Triều không khách khí nữa: “Được, về rồi ta sẽ bảo người tìm cho ngươi một cây cung tốt.”

Tiễn Bích Lưu Ly đi, nàng mới thấy bụng đói cồn cào, chợt nhớ Lương Dạ không biết đã dùng bữa chưa, liền sai thị nữ sang Đông Hiên hỏi. Thị nữ về bẩm rằng phò mã đã đi nghỉ rồi. Hải Triều không nghĩ thêm, gọi dọn bữa, ăn qua loa mấy món, rồi tắm rửa thay y phục, chuẩn bị đi ngủ.

Có lẽ vì đã vào hoàng lăng, nên nàng ngủ không yên, vừa nhắm mắt lại hiện ra trong đầu cỗ quan tài trống rỗng, cùng những phù văn đỏ tươi quỷ dị lơ lửng trên nền đen, tràn ngập hơi thở chẳng lành.

Không rõ đã qua bao lâu, ngoài màn trướng, đèn nến tắt đi, vang lên tiếng sột soạt của tơ lụa, hẳn là thị nữ gác đêm đang rón rén đi lại.

Tiếng động ấy nhanh chóng dừng lại, ban đầu nàng không để tâm, một lúc sau chợt thoang thoảng ngửi thấy mùi hương quen thuộc.

Trong lòng Hải Triều khẽ rung, nàng nhắm mắt, giả như buồn ngủ mơ màng, khe khẽ gọi ra ngoài: “A Thúy, ta khát…”

Ngoài trướng không ai đáp lời, nhưng lại vang lên tiếng bước chân cùng tiếng rót nước.

Giống hệt đêm qua, có người vén màn gấm treo lên móc, nhẹ nhàng nâng đầu nàng dậy, áp vành chén lạnh buốt lên môi.

Hải Triều đột ngột mở bừng mắt, trong bóng tối không rõ dung nhan nhưng đường nét kia lại quá mức quen thuộc.

Nàng trừng mắt nhìn Lương Dạ: “Đêm qua cũng là ngươi?”

***

Chương tiếp theo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *