Kiếm Các văn linh – Chương 114

Chương 114

***

Dưới ngọn đèn dầu đơn độc, ánh sáng hắt lên chiếc hồ thuốc treo cao trong y quán.

Thái tiên sinh cùng mấy người khác đã chờ đợi bên ngoài từ lâu, nghe có tiếng bước chân, ngẩng đầu thấy bóng dáng Kim Bất Hoán từ trong đi ra. Họ đang định bước tới bẩm báo việc phát hiện thi thể của Phùng Kỳ ở gần Tiên Nhân Kiều: “Lang quân…”

Thế nhưng lời còn chưa kịp nói hết, đã bị gương mặt lúc này của Kim Bất Hoán làm cho nghẹn lại, âm thanh bỗng ngừng bặt.

Hắn khẽ rũ mắt, lặng lẽ bước ngang qua bọn họ, không hề dừng chân, chỉ lạnh nhạt buông ra mấy chữ: “Chuẩn bị xe.”

Chuẩn bị xe? Nhưng trận chiến ở Minh Nguyệt Hiệp vừa mới kết thúc, việc dọn dẹp chiến trường, xóa bỏ dấu vết, hay cứu chữa cho những tu sĩ bị thương… mọi việc đều phải đợi hắn quyết đoán chủ trương mới đúng…

Thái tiên sinh thoáng ngẩn ra, vô thức hỏi: “Ngài muốn đi đâu?”

Bước chân Kim Bất Hoán cuối cùng cũng dừng lại.

Phương đông dần hiện lên sắc trắng của bình minh, tất cả những chuyện đã xảy ra trong đêm dài kia lướt qua tâm trí, nhưng rốt cuộc đọng lại không ngừng vang vọng bên tai hắn, lại chính là câu nói khi ấy ở tiểu lâu, khi Chu Mãn xoay người, vung kiếm, giọng lạnh lẽo như lưỡi dao: “Chỉ cần thắng, đúng là đúng, sai cũng là đúng!”

Nực cười thay, khi đó hắn chưa thật sự hiểu hết ý nghĩa câu nói ấy, chẳng trách sư phụ đã bảo hắn còn chưa đủ thông suốt.

Thế lực thế gia lẫy lừng, trong cuộc tập kích trắng trợn ngay trước mắt Vọng Đế cũng chỉ có thể nhẫn nhịn nuốt hận; còn bản thân hắn lại phải đau khổ giằng co giữa việc cứu Chu Mãn hay lo cho đại cục…

Muôn vàn cảm xúc như triều dâng cuộn trào, rồi cũng dần tan biến.

Trong đáy mắt Kim Bất Hoán chỉ còn lại một mảnh bình tĩnh vững chãi như núi sông chẳng thể lay dời, hắn khẽ nói: “Đến Đỗ Thảo Đường.”

Khi trời vừa hửng sáng, vùng ngoại ô phía tây Cẩm Quan Thành vẫn còn tĩnh lặng. Bên bờ Hoán Hoa Khê, mấy gian thảo lư vốn do đệ tử đời sau và những văn nhân mặc khách ngưỡng mộ mà đến dựng thêm, lâu dần đã thành một khu nhà khá rộng.

Trên thềm cửa có treo tấm biển viết ba chữ “Đỗ Thảo Đường”.

Một cây ngân hạnh cổ thụ cành lá sum suê như tán lọng, ánh nắng sớm mờ ảo xuyên qua kẽ lá, rơi vỡ vụn trên vai những đệ tử trẻ tuổi đang cầm chổi quét sân.

Chiếc xe ngựa xa hoa của Kim Bất Hoán dừng lại cách mười trượng, khi hắn bước xuống, dưới chân còn xào xạc vài chiếc lá vàng. Cũng lúc ấy, Thường Tế trên vai còn băng bó vết thương, từ trong đi ra, đứng trên bậc thềm nhìn về phía hắn.

Xe vốn có thể tiến lại gần hơn, nhưng Kim Bất Hoán chưa từng làm vậy.

Đỗ Thảo Đường giữ lối sống thanh đạm giản đơn, bất luận ngoài kia hắn phóng túng đến đâu, một khi trở về nơi này, hắn vẫn chẳng dám có chút lơi là.

Kim Bất Hoán bước tới trước cổng, đệ tử quét sân nhìn thấy thì thoáng kinh ngạc, vội vàng hành lễ, chỉ có Thường Tế dường như đã sớm liệu trước, không hề tỏ vẻ bất ngờ.

Kim Bất Hoán khom mình: “Thường sư huynh.”

Thường Tế chỉ tay vào trong: “Sư phụ ở Thơ Bút Đình, đã đợi ngươi từ lâu.”

Kim Bất Hoán im lặng, qua một lúc lâu mới khẽ nói lời cảm tạ, chỉnh lại y bào, bước vào thảo đường.

Trúc biếc rậm rạp, ngói xanh tường trắng, chỉ điểm xuyết vài bức thơ cũ tranh tàn. Băng qua một hành lang dài hẹp, vòng qua bức bình phong là thấy trước mắt mở ra một dãy hành lang dài, nền gạch lát kín những áng thi văn.

Hắn bước thêm một lát, cuối cùng cũng nhìn thấy gian tiểu đình lợp cỏ tranh.

Cuối hành lang là một rừng trúc đen, kế bên là hồ mực nhỏ sẫm màu. Dưới đáy hồ chìm lẫn vô số cây bút, lớn nhỏ đủ hình dáng. Chính nơi bờ đông của hồ ấy, Thơ Bút Đình lặng lẽ tọa lạc.

Tam Biệt tiên sinh đang ngồi bên hồ thả câu.

Chỉ là, câu không phải để bắt cá, mồi cũng chẳng phải là thức ăn. Ông rút từ đống bản thảo thi tập ngổn ngang bên cạnh một tờ, dùng ngón tay khẽ nắm lấy nét mực, ngay khoảnh khắc tờ giấy biến thành một trang trắng, vết mực trong tay đã hóa thành một viên mực nhỏ bằng hạt đậu. Ông móc nó lên lưỡi câu, rồi theo động tác vung cần, thả chìm xuống làn nước hồ.

Viên mực tan ra trong nước, lại hóa thành từng câu chữ thi văn.

Những cây bút lặng chìm dưới đáy hồ như ngửi thấy mùi hương nào đó, khẽ lay động thân mình, làm nước gợn sóng, lan ra từng vòng lăn tăn.

Kim Bất Hoán thấy cảnh ấy, bèn dừng bước phía sau.

Tam Biệt tiên sinh lặng lẽ dõi theo mặt hồ. Bất chợt đầu cần khẽ run, ông lập tức nâng cần, hất mạnh lên, một cây bút lông thỏ vỏ đen như chú cá nhỏ cắn chặt lưỡi câu, bất ngờ lao khỏi mặt nước. Tam Biệt tiên sinh bật cười sang sảng, vươn tay chộp lấy.

Lấy thơ làm mồi, câu được bút!

“Nuôi đến cả ngàn bài thơ, cuối cùng cũng chịu cắn câu. Không tệ, bút lông thỏ mùa trung thu tháng tám, không khô, không non, không giòn, không trụi, hôm nào vẽ tranh đề chữ sẽ hợp lắm…” Ông ngắm nghía trong tay, lộ vẻ hài lòng, song nhìn thêm một chốc, thần sắc lại chậm rãi trầm lặng, cuối cùng buông một tiếng thở dài: “Ta cũng chẳng biết hôm nay đợi được con đến thì tốt, hay chẳng đợi được đến thì tốt hơn.”

Kim Bất Hoán không biết nên đáp thế nào, chỉ tiến lên khom mình hành lễ: “Đệ tử Kim Bất Hoán, bái kiến sư phụ.”

Tam Biệt tiên sinh hỏi: “Con đã nghĩ thông chưa?”

Kim Bất Hoán tung áo, bất ngờ quỳ thẳng, rút một cây bút trúc đen cũ, dựng ngay giữa ấn đường, khẽ hạ mi mắt, giọng bình lặng: “Đệ tử đã nghĩ thông. Nguyện phụng thánh huấn của Đỗ tiên sinh, từ hôm nay trở đi, vì Thảo Đường mà chấp bút!”

Hắn dập đầu sát đất, phía đông trời hừng sáng.

Muôn tia sáng rực rỡ như những sợi tơ vàng, rải khắp núi non đất Thục.

*

Tại y quán lạnh lẽo trong Tiểu Kiếm thành cổ, Vương Thứ đã ngồi bất động thật lâu rốt cuộc cũng khẽ động đậy.

Nhất Mệnh Tiên Sinh đã kê cho Chu Mãn một phương thuốc, lúc này ông cầm trên tay một mảnh xương vụn, trầm ngâm suy nghĩ. Thấy Vương Thứ bước trở lại, ông đưa mảnh xương ấy cho hắn, nói: “Vừa rồi đám người dưới trướng Kim Bất Hoán có đến, bảo rằng trong lúc dọn dấu vết bên bờ sông gần Tiên Nhân Kiều, phát hiện vật này. Nếu ta đoán không sai, đây là mảnh xương được luyện từ cung mày người chết, dùng cho tà pháp ‘Nhất Diệp Chướng Mục’. Nó cùng loại độc với thứ Chu Mãn trúng phải, có thể đối chiếu một vài điều…”

Đó là một mảnh xương vỡ, tựa như tách ra từ một khối hoàn chỉnh.

Vương Thứ đưa tay đón lấy, thấy chỗ cong của nó như một chiếc gương thô ráp, phát ra tà khí âm u nhưng lại phản chiếu ra hai sắc đen trắng.

Chỉ là sắc đen vô cùng nhiều, sắc trắng lại cực hiếm, chỉ như vài cánh buồm nhỏ cô độc đang gắng gượng giữa sóng gió dữ dội, chỗ thì chỉ là một chấm, chỗ thì kéo dài thành những nét.

Trong đó, có ba vệt dài và sáng hơn hẳn, như sao băng rực cháy soi rọi màn đêm; cạnh bên có hai vệt ngắn hơn, nhưng cũng vững vàng ấm áp, bất động chẳng lay, ngoài ra phần lớn ánh sáng đều tản mác, tựa những vì tinh tú lụi tàn, có thể tắt đi bất cứ lúc nào.

Lúc này Nhất Mệnh Tiên Sinh không muốn nhìn xem trên mặt Vương Thứ là biểu tình gì, chỉ khẽ rủ mi xuống chậm rãi nói: “Đây có lẽ chính là toàn bộ thiện ác mà nàng sẽ phải trải qua trong một đời này…”

Loại độc Nhân Tâm này không cướp đi tính mạng, nhưng lại được đặt ở trang cuối cùng trong Độc Kinh. Cái hiểm ác thực sự, chính là nằm ở chỗ đó.

Con người có lẽ có thể kiềm chế lòng mình, nhưng lại chẳng thể khống chế được lòng người khác.

Một đời nếu gặp được nhiều thiện ý, đau khổ sẽ bớt đi; nếu gặp nhiều ác ý, đau khổ ắt càng thêm sâu.

Nhất Mệnh Tiên Sinh chậm rãi nói: “Nàng hôn mê bất tỉnh, chính là vì giờ đây đang mắc kẹt trong cơn ác mộng, không chịu tỉnh lại.”

Vương Thứ lặng nhìn tấm gương nhỏ bằng xương trong tay. Rõ ràng nó chỉ to cỡ móng tay, chỉ một mảnh đen kịt, thế nhưng khi nuốt trọn những ánh sáng mỏng manh kia, lại trở nên mênh mông như biển rộng không bờ.

Một người rốt cuộc đã phải trải qua những gì mới thành ra như thế?

Khoảnh khắc ấy, hắn bỗng mơ hồ hiểu được, tại sao xưa nay nàng luôn không chịu tin người, tại sao lại thường bước đi theo những lối rẽ hiểm hóc.

Ánh nắng chiếu qua lớp giấy cửa sổ, hắt lên khuôn mặt nhợt nhạt của nàng, chỉ còn hơi thở yếu ớt nhẹ nhàng, phẳng lặng như trong giấc ngủ.

Vương Thứ siết chặt mảnh xương, đi tới bên nàng, chỉ hỏi: “Thứ độc này thực sự không có cách giải sao?”

Nhất Mệnh Tiên Sinh đáp: “Nếu có, thì đã chẳng bị ghi vào tận trang cuối của Độc Kinh.”

Vương Thứ chậm rãi ngồi xuống, cúi mắt nhìn nàng thật lâu, cuối cùng khẽ nói: “Nhưng dù độc không thể giải, chưa chắc đã không thể độ, đúng không?”

Nhất Mệnh Tiên Sinh giật mình ngẩng đầu nhìn hắn!

Trong phòng lại chìm vào tĩnh lặng như cái chết.

Chu Mãn bị giam cầm trong một giấc mộng triền miên. Trong mộng, người đến kẻ đi, hai kiếp thăng trầm đều giao hòa nơi ấy.

Ban đầu, là phụ thân đang đan nan tre trong sân, lúc nào cũng mỉm cười, gặp phải bất kỳ chuyện gì cũng không tức giận, càng chẳng bao giờ nặng lời, còn mẫu thân thì luống cuống trong bếp, khi thì lỡ tay rắc quá nhiều muối, khi lại bỏ ít dầu, tay nghề nấu nướng chẳng bao giờ ngon, nhưng lại biết hết thảy tinh tú trên trời. Vào những đêm hè, bà thường ôm lấy nàng, ngồi trong sân nghe côn trùng kêu ngoài hàng rào, kể cho nàng nghe từng câu chuyện về các vì sao, phụ thân thì ngồi dưới mái hiên, mỉm cười lắng nghe.

Thế nhưng, ngay lúc nàng hớn hở giơ tay chỉ về một vì tinh tú trên bầu trời, ngôi sao ấy lại bất chợt bị cuốn vào bóng đêm thăm thẳm phía sau, kéo cả nàng rơi vào xoáy nước.

Vi Huyền nói, ông ta đến để mượn kiếm cốt;

Tống Lan Chân nói, nàng bất đắc dĩ;

Trương Nghị nói, trăng tròn thì khuyết, nước đầy thì tràn…

Xoáy nước hóa thành biển mây, nàng rơi xuống từ đài Đăng Phong trên đỉnh Ngọc Hoàng, mơ hồ nghe bên tai vang vọng một tiếng than thở u buồn: “Chu Mãn, ngươi nối nghiệp ta, cớ sao chẳng thể hoàn tất di nguyện của ta?”

Trong lúc rơi xuống, nàng há miệng muốn giải thích với giọng nói ấy.

Nhưng chớp mắt, mây khói tan đi, nàng lại ngồi trong quán rượu nhỏ ở ngõ sâu, cùng Kim Bất Hoán, cùng Nê Bồ Tát uống rượu nghe mưa, bàn luận xem trên đời có căn bệnh nào thực sự không thể chữa. Uống xong, nàng đứng dậy, vứt lại nửa chén rượu thừa, bước ra khỏi con ngõ sâu. Nhưng chẳng hiểu sao, con hẻm nát kia lại dài hun hút, đi mãi đi mãi, chẳng thấy điểm cuối…

Chỉ có một bàn tay, nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay nàng.

Có người cất giọng sát bên, âm thanh khẽ khàng, như sợ quấy rầy nàng: “Ta biết ngươi giỏi lừa người, nhưng không ngờ ngay cả Kim Bất Hoán cũng bị ngươi lừa. Hắn không phải ngốc nghếch, hắn chỉ là… quá muốn tin tưởng ngươi thôi. Ta cũng muốn tin, nhưng Chu Mãn, ta không dám… Từ lần đầu tiên gặp ngươi ở y quán, ta đã biết ngươi có bí mật, nói dối thành quen. Rõ ràng là vết thương do tên, ngươi lại nói là do đao… Sau đó gặp lại ở học cung, ngươi cứu Triệu chế y, giúp Triệu Nghê Thường, vậy mà miệng vẫn lạnh nhạt khắc nghiệt… Chẳng qua chỉ là một tiểu tỳ nhỏ nhoi, Triệu Nghê Thường đối với ngươi thì có tác dụng gì chứ?”

Bàn tay ấy chạm lên cổ tay nàng, đầu ngón tay lành lạnh, nhưng lại đột nhiên bật cười: “Bất luận xa gần, từ bé đến giờ, những người ta từng biết, chẳng có mấy ai lòng dạ thật sự thuần thiện, ngay cả bệnh nhân đến xem bệnh cũng thường dối trá… Nhưng người giống ngươi lại là lần đầu ta gặp. Một người sao có thể có nhiều lời dối trá đến thế? Nhưng ngươi… lại chính là dáng hình mà ta chẳng thể sống được, cũng là dáng hình mà ta chẳng dám sống thành.”

Có thứ gì đó ẩm nóng, rơi xuống, khắc sâu lên cổ tay nàng.

Chu Mãn chợt cảm thấy giọng nói kia bỗng trở nên ngập tràn bi thương: “Kim Bất Hoán nói đúng, ta nên tỉnh lại rồi…”

Bàn tay mang theo hơi ấm ấy dần dần buông nàng ra.

Chu Mãn lập tức thấy lạnh lẽo, nhưng ngay sau đó, cổ tay truyền đến một trận đau buốt như kim châm, khiến mồ hôi lạnh rịn ra trên trán, ngay cả trong mộng cũng nhíu chặt mày.

Tiếng nói kia dường như đồng cảm với nỗi đau của nàng, chỉ không ngừng khẽ thì thầm bên tai: “Không sao đâu, Chu Mãn, không sao đâu. Rất nhanh thôi, ngươi sẽ không còn đau nữa…”

Vạt áo ở bả vai trái bị người ta từ từ vén xuống.

Những mũi kim châm lần lượt đâm vào huyệt đạo, ép luồng độc từ tâm thất trái dọc theo kinh mạch cánh tay trái chảy xuống. Bàn tay kia lại siết chặt lấy nàng, mười ngón đan xen. Trong mộng, luồng hàn độc băng buốt ấy như cũng tìm được lối thoát, theo đó mà dần tan đi.

Bóng tối biến mất, lạnh lẽo biến mất.

Chu Mãn lại nghe thấy tiếng côn trùng kêu bên hàng rào, bầu trời từng bị xoáy nước vò nhàu nay đã trải rộng ra, những vì sao lụi tàn lại lần nữa sáng lên. Trong gió thoảng qua một chút hương thuốc đắng nhạt.

Vương Thứ tháo dải lụa che mắt, từ trong bước ra.

Nhất Mệnh Tiên Sinh đứng bên ngoài, dường như đã chai sạn, chỉ nhìn hắn rồi chậm rãi nói: “Người làm y, trước hết phải tự cứu mình rồi mới có thể cứu người.”

Vương Thứ đáp: “Nhưng con vốn dĩ không thể tự cứu mình. Con là đại phu, nàng là bệnh nhân, con cứu nàng là lẽ đương nhiên.”

Nhất Mệnh Tiên Sinh chưa từng biết đứa học trò này từ khi nào đã học được cách bình thản che giấu như thế.

Ông nhìn hắn thật lâu: “Thực sự chỉ đơn giản là quan hệ đại phu và bệnh nhân thôi sao?”

Vương Thứ khẽ rũ mi mắt, không trả lời.

Thấy vậy, giọng Nhất Mệnh Tiên Sinh bỗng chốc hóa giận: “Mạng con vốn chẳng còn bao lâu, sao có thể gánh thêm thứ Nhân Tâm độc này nữa?”

Vương Thứ nói: “Nhưng ít ra, cứu được nàng, thì nỗi đau con chịu vẫn ít hơn nàng.”

Trong tay hắn, chính là mảnh xương vỡ ban nãy. Khi độc tâm đổi sang ký chủ mới, sắc đen trắng phản chiếu trong mảnh xương ấy cũng dần biến đổi.

Vẫn như Chu Mãn, có ba vệt dài, hai vệt ngắn trắng sáng, nhưng những ánh sáng tản mát còn lại đã chiếm gần một nửa. Dẫu bóng tối phía bên kia dày đặc và âm lạnh đến đâu, cũng chẳng thể nuốt trọn chúng.

Hắn, so với Chu Mãn, quả thực may mắn hơn nhiều.

Cái lạnh buốt lan dần khắp tứ chi, xương cốt, nhưng Vương Thứ vốn quen chịu đựng đau đớn, nên chẳng thấy quá nặng nề.

Hắn chỉ nói: “Hơn nữa, thứ độc này cũng chẳng phải không có chỗ tốt. Về sau, bất kể người ta đối với con là thiện hay ác, con đều có thể thấy rõ ràng, chẳng cần phí tâm phân biệt. Dẫu cả đời này, con phải chịu đựng khổ đau giày vò cũng chẳng có gì là không ổn. Tất cả, đều xem như tội có đáng không, là sự trừng phạt con phải gánh cho những ác niệm trong lòng mình…”

Khi lời hắn rơi xuống, Nhất Mệnh Tiên Sinh bỗng thấy lòng trống rỗng, nhưng kế đó, chợt hiểu ra điều gì, dường như không dám tin, đột nhiên lùi một bước.

Thế nhưng Vương Thứ lại vô cùng bình tĩnh, tựa hồ hồn phách đã tách khỏi thân xác, trong mắt ẩn giấu nỗi bi thương, song trên mặt vẫn mỉm cười: “Con đã nhận mệnh rồi, cúi đầu rồi, cuối cùng cảm thấy làm công tử Thần Đô cũng tốt thôi. Sư phụ sau này có lẽ không cần vì cứu con mà phiền muộn nữa, chẳng phải nên vui sao? Sao người lại muốn khóc?”

***

Chương tiếp theo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *