Ta là chướng ngại vật của vai ác – Chương 24

Hồi thứ hai mươi bốn

Trong các dạng đề thi công chức, Thạch Chân giỏi nhất hai loại: “phán đoán định nghĩa” và “phân tích dữ liệu”, đặc biệt có năng lực sắc bén trong việc bắt từ khóa, nắm trọng điểm số liệu, tách rời cấu trúc ngữ nghĩa phức tạp và phân tích mối liên hệ logic bên trong. Hôm nay, đúng là lúc để chuyên môn phát huy.

Chỉ liếc sơ qua tài liệu vụ án bằng tốc độ mười dòng một mắt, trong đầu Thạch Chân đã có đại khái manh mối. Nàng bèn mượn tiểu nhị trong khách điếm mấy tờ giấy tuyên dài bốn thước, trải trên sàn thành trận thế, cầm bút vừa viết vừa vẽ.

Viên Đạt Quỳ ôm Tiểu Hắc, Cao Thiên Mẫn khoanh tay trong tay áo, mỗi người một bên đứng xem, càng nhìn càng rối.

Cao Thiên Mẫn hỏi: “Thạch cô nương vẽ nhiều ô thế này, còn chép lại tài liệu làm gì vậy?”

Thạch Chân không dừng tay, vừa viết vừa đáp: “Đây là bảng ma trận vụ án.”

Viên Đạt Quỳ: “Hả?”

“Ta dùng bảng để thống kê thông tin cơ bản của ba mươi tám vụ án, nhìn vào là thấy ngay, tiện cho việc đối chiếu và so sánh.” Thạch Chân đáp, “Ví dụ như mã số vụ án, thông tin cơ bản của đứa trẻ mất tích, địa điểm, thời gian mất tích, đặc điểm môi trường, thời tiết lúc đó, tình trạng người thân…”

Vừa nói, Thạch Chân vừa hoàn thành tờ bảng thứ nhất, xê dịch vị trí, trải tờ giấy thứ hai ra viết tiếp.

Viên Đạt Quỳ nghiêng đầu nhìn bên trái rồi lại bên phải, mắt hoa cả lên: “Sao lại có hai cái cây phả hệ, còn có nhiều vòng tròn với chấm đen vậy?”

Thạch Chân: “Đây là biểu đồ phân bố độ tuổi và thời gian mất tích của những đứa trẻ. Trục ngang là độ tuổi, trục dọc là thời điểm mất tích. Chấm đen đại diện bé trai, vòng tròn rỗng là bé gái.”

Cao Thiên Mẫn trợn mắt: “Sao mấy cái điểm này tụ lại thành một cụm thế?”

Thạch Chân: “Cho thấy những đứa trẻ mất tích có điểm chung. Thứ nhất, đa số nằm trong độ tuổi từ sáu đến tám, phần lớn là bé gái; thứ hai, thời điểm mất tích tập trung vào các ngày từ 29 đến mùng 1 hàng tháng.”

Vẽ đến đây, tay Thạch Chân hơi khựng lại, rồi đánh dấu đứa trẻ số 38.

Đứa trẻ mất tích cuối cùng, tên Trình Thập Tam Nương, mất tích vào mười lăm tháng sáu, mười tuổi. Chỉ có vòng tròn rỗng đại diện cho cô bé ấy lơ lửng một mình phía trên biểu đồ, không trùng với bất kỳ cụm nào, trông rất chướng mắt.

“Vì sao đứa bé đó lại khác biệt?” Viên Đạt Quỳ hỏi.

Thạch Chân lắc đầu: “Chưa xác định được.” Rồi tiếp tục vẽ tờ thứ ba.

Lần này, Thạch Chân tiếp tục thống kê địa điểm mất tích, môi trường xung quanh, thời tiết vào ngày mất tích, và phát hiện ra quy luật như sau: cả ba mươi tám đứa trẻ đều mất tích ở khu chợ, thời điểm là lúc hoàng hôn, thời tiết đều là mưa, tuyết hoặc sương mù.

Cao Thiên Mẫn đã hiểu, gật đầu nói: “Giờ hoàng hôn ở chợ là lúc dòng người hỗn loạn nhất, lại thêm thời tiết che khuất tầm nhìn, đúng là rất dễ làm trẻ con đi lạc.”

Thạch Chân lại đối chiếu trang phục lúc mất tích, không có điểm tương đồng. Sau đó thống kê tình trạng thân nhân, thì thấy tất cả đều là nông hộ bình thường, hơn nữa đều là gia đình đông con.

Viên Đạt Quỳ thở dài: “Nhà nghèo con đông, nuôi cũng không kỹ, gặp năm đói kém, trẻ con càng dễ chết đói. Muốn sống sót lớn lên, toàn dựa vào số trời, mà nữ nhi thì càng thiệt thòi… Ôi…”

Thạch Chân không đáp, nàng hiểu rõ ý của Viên Đạt Quỳ.

Gia đình nghèo sinh nhiều con, chăm nuôi rất cực. Trẻ nhỏ thân yếu, chết yểu rất nhiều. Vì muốn duy trì hương hỏa, phụ mẫu buộc phải sinh nhiều, tăng cơ hội sống sót. Mà nông hộ sống bằng lao động chân tay, nên trọng nam khinh nữ cũng là thường.

Nếu con cái mất tích, dù phụ mẫu có lo lắng đi nữa, đi báo quan, tìm kiếm khắp nơi, nhưng sau vài tháng không kết quả, vừa kiệt tiền vừa kiệt sức, đành than một câu “số mệnh là vậy”, coi như đứa trẻ đã chết, chẳng còn hơi sức mà điều tra đến cùng.

Thạch Chân lại nghĩ đến mức thưởng ít ỏi trong lệnh treo thưởng, trong lòng càng thêm đè nén.

Cao Thiên Mẫn vừa đi vòng quanh mấy tấm bảng vừa nói: “Trẻ mất tích, thường có mấy nguyên do: phổ biến nhất là bắt cóc bán trẻ em, bé trai thì bán làm người hầu, làm con nuôi hương hỏa, bé gái thì đem vào lầu xanh; thảm nhất là tàn tật hóa để đi ăn xin, móc mắt, khoét mũi, chặt tay chân, biến thành dị dạng, bị xua ra đường than khóc cầu tiền.”

Thạch Chân cắn cán bút: “Nếu là buôn người, thì dưới bốn tuổi dễ bị bắt nhất, còn trên sáu tuổi đã biết nhớ đường, nhận mặt, rủi ro cao hơn.”

Cao Thiên Mẫn: “Cũng có đứa trẻ nghịch ngợm, bị phụ mẫu đánh nên bỏ nhà ra đi, hoặc vì chơi đùa quá trớn mà đi lạc.”

Thạch Chân lắc đầu: “Nếu là những lý do đó, thì độ tuổi mất tích sẽ không cố định, thời gian cũng sẽ phân tán ngẫu nhiên, chứ không tụ lại như thế này.”

“Hay là dã thú vào thành bắt cóc ăn thịt?”

“Chỗ mất tích toàn là khu chợ náo nhiệt, không hợp lý.”

“Hay là trẻ đuối nước?”

“Có sáu đứa mất tích vào mùa đông giá rét, sông đóng băng, cũng không hợp lý.”

Viên Đạt Quỳ đang xoa đầu Tiểu Hắc, Tiểu Hắc kêu “grừ grừ” ngủ ngon lành: “Ta thấy chắc chắn là bị bắt cóc buôn bán!”

Thạch Chân: “Ta nghe được tin, đã có tu sĩ đi điều tra các manh mối đó rồi, chúng ta không cần lặp lại. Hơn nữa, ta cứ thấy có gì đó không đúng.”

Thạch Chân bèn lấy ngày sinh của ba mươi tám đứa trẻ ra đánh dấu.

Thành Linh Tê thuộc nhân tộc, dùng lịch của nhân tộc. Trẻ mất tích chủ yếu sinh vào khoảng ba năm trước Thái Huyền, tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh đều khác nhau, nhưng không hiểu sao Thạch Chân cứ có cảm giác khó chịu mơ hồ.

Cao Thiên Mẫn nhìn chăm chú vào những ngày tháng sinh đó một lúc lâu, chợt bật ra một câu: “Là bát tự sinh thần!”

Thạch Chân lập tức tinh thần chấn động: “Ý huynh là gì?”

Cao Thiên Mẫn cầm bút chấm mực, kéo sang một tờ giấy, cũng bắt đầu vẽ vời tính toán: “Chuyển ngày sinh của bọn trẻ sang hệ Can Chi. Đứa trẻ đầu tiên mất tích có bát tự là năm Ất Hợi, tháng Đinh Sửu, ngày Ất Mão, giờ Tân Tỵ; Đứa thứ hai là năm Ất Hợi, tháng Kỷ Tỵ, ngày Tân Mùi nhật, giờ Quý Dậu; Tiếp nữa là năm Ất Hợi, tháng Tân Mão, ngày Quý Tỵ, giờ Ất Mùi, rồi thì năm Ất Hợi, Ất Hợi…”

Không đến bao lâu, Cao Thiên Mẫn đã viết đầy một tờ lớn.

Thạch Chân hỏi: “Có điểm gì đáng ngờ sao?”

Cao Thiên Mẫn hít sâu một hơi: “Tất cả bát tự đều là tứ trụ âm.”

Nói cách khác, can chi năm, tháng, ngày, giờ sinh của từng đứa trẻ đều là âm can, âm chi, toàn bộ tám chữ đều là âm tính.

Viên Đạt Quỳ vỗ vai Cao Thiên Mẫn: “Cao huynh, thật lợi hại!”

Cao Thiên Mẫn: “Đây là môn học bắt buộc của trận tu, không có gì đặc biệt.”

Ánh mắt Thạch Chân lướt qua hàng loạt bát tự dày đặc, sau lưng khẽ lạnh đi, lại hỏi: “Khoảng thời gian từ ngày hai mươi chín đến mùng một hàng tháng, có ý nghĩa gì đặc biệt không?”

Cao Thiên Mẫn đáp: “Đó là lúc giao giới giữa hối và sóc, thời khắc âm khí thịnh nhất.”

Viên Đạt Quỳ rùng mình một cái: “Trùng hợp… quá trùng hợp rồi!”

“Trùng hợp nhiều thì không còn là trùng hợp nữa.” Thạch Chân nhíu mày, từng chữ từng chữ: “Hãy giả sử có kẻ cố ý chọn những đứa trẻ có bát tự đặc biệt, và chỉ ra tay vào những ngày đặc biệt, để phục vụ cho một mục đích đặc biệt nào đó…”

Ánh mắt Cao Thiên Mẫn lóe sáng: “Mục đích gì cơ?!”

Thạch Chân đáp: “Ví dụ như… dùng những đứa trẻ bát tự tứ trụ toàn âm, để thực hiện một số hành vi tà đạo không thể công khai.”

Viên Đạt Quỳ hít vào một hơi lạnh.

Ngay khoảnh khắc ấy, trong đầu Thạch Chân chợt dấy lên vô số án lệ u ám trong và ngoài thế gian, nàng cân nhắc một hồi, dè dặt hỏi: “Trong giang hồ… có tà pháp nào dùng trẻ con để luyện đan hay tu hành không?”

“Tuyệt đối không thể có!” Viên Đạt Quỳ đáp ngay.

Thạch Chân kinh ngạc: “Vì sao ngươi lại chắc chắn thế?”

Viên Đạt Quỳ: “Vì linh căn linh mạch chính là cội nguồn tu hành của tu sĩ. Nếu muốn tu hành thuận lợi, linh căn bắt buộc phải thanh sạch. Nếu ô uế, khí nhập vào thân sẽ bị nhiễm bẩn, tất nhiên tẩu hỏa nhập ma, hậu quả khôn lường.”

Nghe Viên Đạt Quỳ nói vậy, Thạch Chân mới chợt nhớ đến lý do linh tộc không ăn mặn, chẳng lẽ nhân tộc tu hành cũng có quy tắc tương tự?

Viên Đạt Quỳ tiếp: “Tuy linh mạch của nhân tộc không thuần khiết mảnh mai như linh tộc, cũng không kiêng kỵ thịt cá, nhưng thứ đưa vào miệng vẫn phải cẩn trọng. Bình thường đã phải dùng đủ loại linh đan diệu dược để dưỡng linh mạch, còn chẳng đủ, thì sao có chuyện đi làm bẩn linh mạch để tự hủy hoại tu vi?”

Cao Thiên Mẫn liếc Viên Đạt Quỳ một cái, cũng tiếp lời: “Phàm nhân không có linh căn, ăn tạp, lại đầy tham sân si, ô uế nhất, căn bản không thể luyện chế thành đan dược.”

Chẳng lẽ… mình nghĩ quá nhiều rồi sao? Thạch Chân gãi đầu, thì thào: “Hay là… chỉ là một kẻ giết người hàng loạt chuyên thu thập xác trẻ con có bát tự đặc biệt?”

Viên Đạt Quỳ: “Vậy thì kẻ đó đúng là súc sinh đội lốt người!”

Cao Thiên Mẫn thì có phần chán nản, lẩm bẩm: “Những đứa trẻ mất tích, lâu nhất cũng đã ba năm, ít thì cũng cả quý. Nếu có manh mối gì, phủ thành chủ đã tra ra từ sớm rồi. Đợi đến tận bây giờ mới phát lệnh treo thưởng… Nói trắng ra là chiêu xoa dịu dân tâm, làm màu cho có thôi.”

Thạch Chân lắc đầu: “Hai người đừng bi quan. Giờ đã có vài đầu mối rồi, chưa đến mức tuyệt vọng đâu.”

Nói đoạn, nàng chỉ vào tài liệu: “Đứa trẻ mất tích sau cùng Trình Thập Tam Nương, mới mất chưa đầy một tháng, tuổi và thời điểm mất tích đều khác biệt, rất có khả năng là manh mối. Có lẽ chúng ta có thể lần theo vụ này.”

Viên Đạt Quỳ hạ giọng: “Thạch cô nương nghĩ… đứa bé ấy còn sống?”

“Chỉ cần còn một tia hy vọng, ta nhất định thử.” Thạch Chân đáp kiên định.

Cao Thiên Mẫn chăm chú nhìn Thạch Chân một cái, rồi gật đầu: “Nếu đứa bé đó còn sống, ta có thể thử dùng ‘trận Tầm Khí’.”

Viên Đạt Quỳ ngạc nhiên: “Trận Tầm Khí không phải chỉ dò được khí tức bảo vật, không cảm ứng được hơi thở sinh linh sao?”

Cao Thiên Mẫn: “Cao mỗ tư chất bình thường, chỉ có trận Tầm Khí là chuyên tâm nghiên cứu nhiều năm, nay cũng coi như có chút thành tựu. Nếu có thể lấy vật tùy thân của sinh linh đặt vào trận Tầm Khí đã cải tiến, chỉ cần người đó chưa chết, khí tức sẽ gây cộng hưởng trong trận. Tuy không thể xác định tọa độ chính xác, nhưng ít nhất có thể biết người đó còn sống hay không, thậm chí nếu may mắn còn lần được hướng đại khái.”

Thạch Chân mừng rỡ, lập tức lật lại quyển tài liệu tra vị trí nhà và người báo án của Trình Thập Tam Nương, vỗ bàn đứng dậy: “Việc không thể chậm trễ, xuất phát ngay!”

*

Địa giới nam thành Linh Tê, có một ngõ nhỏ vắng tên là ngõ Giếng Nước Ngọt. Căn nhà thứ ba từ đầu ngõ phía tây, chính là nhà của Trình Thập Tam Nương.

Người báo án là vú nuôi của Trình Thập Tam Nương, không có tên thật, trong hồ sơ chỉ ghi ba chữ: “Trương mụ mụ.”

Thạch Chân, Viên Đạt Quỳ và Cao Thiên Mẫn nhân bóng đêm, vội vã đến ngõ Giếng Nước Ngọt. 

Người ra mở cửa chính là Trương mụ mụ.

Bà ta đã ngoài năm mươi, tóc mai điểm sương, sắc mặt vàng vọt, hai mắt sưng đỏ vì khóc nhiều.

Bên cạnh Trương mụ mụ còn có một lão bộc già, trạc ngoài lục tuần, tóc bạc trắng đầu. Thấy ba người Thạch Chân đến, ông ta chỉ gật đầu chào, hỏi gì cũng không đáp. Hỏi ra mới biết: lão bộc mấy năm trước mắc bệnh, giờ vừa điếc vừa câm, trí nhớ cũng kém, mắt mờ tai lãng, chỉ làm được vài việc vặt trong nhà.

Nhà họ Trình chỉ có ba gian nhỏ: một phòng của Trình Thập Tam Nương, một gian để Trương mụ mụ sinh hoạt, một gian làm kho kiêm chỗ ngủ của lão bộc.

Thạch Chân đứng giữa sân, quét mắt quan sát đại khái: nhà cửa thấp nhỏ, tường vách xộc xệch, mái ngói chen lẫn cỏ úa, nhưng cửa sổ cánh cửa, dù sơn đã tróc, vẫn được lau chùi rất sạch sẽ.

Đêm sâu tĩnh lặng, bóng cây lay động, hương hoa thoảng qua, tiếng ve ngân ngắn, như lời thì thầm thân mật. Một nơi yên tĩnh hẻo lánh hiếm có.

Trương mụ mụ đưa ba người vào trong, tay áo chùi nước mắt, giọng khàn khàn mang theo tiếng nức nở: “Ban ngày có mấy vị tiên trưởng đến, hỏi chuyện hôm Thập Tam Nương mất tích rồi đi luôn, cũng chẳng thấy tin gì… Rốt cuộc… con bé có tìm được về không…?”

Viên Đạt Quỳ động lòng trắc ẩn, nhỏ giọng an ủi. Cao Thiên Mẫn khoanh tay đứng sau lưng Thạch Chân, đi theo vào phòng.

Phòng của Thập Tam Nương cũng rất nhỏ hẹp, cửa thấp, cửa sổ nhỏ. Trước cửa là một án thờ, trên bàn đặt hương án, lễ phẩm và bài vị. Trên bài vị ghi: “Bài vị của tiên mẫu Trình Kỷ”, bên trái viết hai hàng chữ nhỏ: “Nữ nhi bất hiếu Thập Tam Nương lập”, và ngày giỗ: năm Canh Tý, tháng Bính Tuất, ngày Nhâm Dần, giờ Kỷ Dậu.

Thạch Chân chỉ liếc sơ qua, rồi bước vào phòng.

Viên Đạt Quỳ có vẻ rất kiêng dè chuyện quỷ thần, nghiêm túc vái mấy cái, rồi hỏi mới biết: Trình Kỷ là mẫu thân của Thập Tam Nương, đã mất mấy năm trước.

Giường đặt sát cửa sổ, cạnh giường là tủ áo, đều là vật cũ. Căn phòng nhỏ hẹp, mà còn chen thêm một chiếc bàn học giữa giường và tủ, bên trên đặt đủ văn phòng tứ bảo.

Mở tủ áo ra, tầng dưới là quần áo trẻ con của tiểu cô nương, đều là vải thô màu nhạt; tầng trên xếp đầy sách, hóa ra tủ áo dùng làm luôn tủ sách.

Thạch Chân hỏi: “Thập Tam Nương thích đọc sách à?”

Trương mụ mụ gật đầu: “Trình gia là nhà đơn thân nữ chủ, mẫu thân của Thập Tam Nương hồi còn sống có buôn bán nhỏ, cũng tạm đủ sống, từng mời thầy dạy học vài năm. Sau khi nàng ấy mất, nhà ngày càng sa sút, nên con bé không còn được học tiếp.”

Thạch Chân tùy tay rút một cuốn, tên sách khá đặc biệt, như Hiệp Khách Lục, Truyện Lão Bộ Đầu, Kỳ Văn Bí Quyển, toàn là loại truyện giang hồ kỳ dị dân gian. Xem qua mục lục, đều là các ghi chép giang hồ, truyền kỳ hiệp khách.

Nàng có phần bất ngờ. Trong hồ sơ có ảnh vẽ của Trình Thập Tam Nương, mới mười tuổi mà mặt mũi thanh tú, dung mạo trầm tĩnh, trông rất có nề nếp, ai ngờ lại thích đọc loại sách dân dã này.

Thạch Chân hỏi: “Thập Tam Nương thích đọc thoại bản?”

Trương mụ mụ: “Những thoại bản đó đều là mượn được. Sách trong học đường thì không mượn được, mua cũng không nổi. Con bé bảo chữ nào chẳng là chữ, cứ đọc được là đọc. Ta không biết chữ, chẳng phân biệt nổi, con bé thích là được rồi.”

Sách là đồ mượn, đã nhiễm khí tức người khác, sợ rằng không thể dùng trận Tầm Khí.

Thạch Chân đặt sách xuống, lại xem bàn học. Đồ văn phòng được rửa rất sạch, mực và giấy cất kỹ trong hộp, giữ gìn rất cẩn thận, nhưng không thấy mẩu giấy nào đã viết.

Trương mụ mụ giải thích: giấy mực đắt, ngày thường Thập Tam Nương tiếc không dám dùng, chỉ dùng cành cây viết chữ trên nền đất.

Cao Thiên Mẫn nhờ Trương mụ mụ lấy toàn bộ quần áo của Thập Tam Nương ra, có cái cũ, có cái mới, có loại nhỏ cỡ trẻ năm sáu tuổi mặc, vải thô giản dị, giặt sạch sẽ. Có loại to hơn, là váy áo mới dành cho tiểu cô nương mười tuổi, thêu hoa tinh tế, hoàn toàn không có dấu hiệu đã mặc, trông như mới nguyên.

Trương mụ mụ vừa gấp quần áo, vừa rơi nước mắt: “Đây là đồ hồi nhỏ của Thập Tam Nương, ta không nỡ vứt. Còn mấy bộ này là mua dịp năm mới, cứ cách vài ngày lại giặt lại… Giặt sạch, phơi kỹ… Nghĩ bụng nếu con bé có về, sẽ mặc thấy thoải mái…”

Cao Thiên Mẫn xem kỹ từng cái, rồi lắc đầu. Những bộ này hoặc giặt quá kỹ, hoặc quá mới, không còn dấu khí của chủ nhân, không dùng được.

Thạch Chân: “Có vật nào Thập Tam Nương hay mang theo không?” Rồi bổ sung: “Chưa từng giặt qua.”

Trương mụ mụ suy nghĩ một lúc, rồi lấy từ tầng đáy tủ ra một hộp gỗ nhỏ. Trong hộp là một chiếc lược gỗ nhỏ, chất liệu gỗ đào, dài bằng lòng bàn tay, mép nhẵn, răng lược hơi thô, trên cán khắc hai chữ “Thập Tam” xiêu vẹo.

Trương mụ mụ: “Đây là do Thập Tam Nương tự khắc. Năm nào đến ngày giỗ mẫu thân, con bé cũng đốt một chiếc lược cúng. Đứa nhỏ này, thật là hiếu thảo…”

Tiểu Hắc từ trên đầu Thạch Chân nhảy xuống vai (từ lúc rời khách điếm, nó nhất quyết không cho Viên Đạt Quỳ bế nữa, chắc cảm thấy đã hoàn thành nhiệm vụ), thò đầu ra ngửi thử chiếc lược, hắt hơi một cái, rồi “meo meo” mấy tiếng.

Viên Đạt Quỳ: “Tiểu Hắc cũng nói cái lược này dùng được! Cao huynh, thử đi!”

Cao Thiên Mẫn lập tức bấm quyết dựng trận. Trong phòng nhỏ, từng đạo chú văn ánh vàng hiện lên, kết thành một la bàn khổng lồ. Cao Thiên Mẫn ném chiếc lược gỗ đào vào giữa, lược gỗ xoay vòng giữa không trung, phát ra tiếng răng rắc, la bàn chấn động dữ dội, bỗng nhiên, toàn bộ trận văn trong trận Tầm Khí sáng bừng lên.

Cao Thiên Mẫn mừng rỡ kêu lớn: “Đứa bé vẫn còn sống!”

*

Tiểu kịch trường:

Tiểu Hắc: Cuối cùng cũng thoát khỏi tên râu ria kia rồi, meo meo meo~!

***

Chương tiếp theo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *