Mộng hồi Tây Châu – Chương 40

Chương 40: Tòa nhà ăn thịt người (37)

***

Cữu mẫu sững người, dường như chưa từng nghĩ ta sẽ gật đầu.

Bà ta nước mắt nước mũi đầy mặt, lại định dập đầu với ta, ta liền bực, nói đừng giở mấy trò đó, ta có thể thay nó.

Ta vén vạt áo cho bà ta xem thương tích trên người: “Nhưng ta gãy hai cái xương sườn, ít ra cũng phải cho ta dưỡng một hai tháng.”

Cữu mẫu gật đầu lia lịa: “Phải phải, phải mà.”

Lúc này ta chính là cứu tinh của bà ta, là cha mẹ tái sinh.

Suốt tháng sau, bà ta hầu hạ ta như hầu Vương Mẫu nương nương ở cữ, làm thịt ba con gà, ngay cả đứa con cưng của bà ta cũng chỉ được uống chút canh.

Ta chẳng áy náy gì, để mặc bà ta hầu hạ một tháng, đợi đến khi xương cốt liền lạc kha khá rồi, liền chuẩn bị bỏ trốn.

Thật ra hôm ấy vừa gật đầu đồng ý với cữu mẫu xong, ta liền hối hận.

Một kẻ xuất thân trộm cắp như ta, lại trông mong ta nói lời giữ lời được sao?

Đợi đến đêm khuya, ước chừng cữu mẫu đã ngủ, ta lặng lẽ ngồi dậy chuẩn bị chuồn đi.

Vừa thay xong y phục, chợt nghe bên chiếc chiếu bên cạnh có tiếng động sột soạt, biểu muội tỉnh rồi.

Ta chẳng sợ nó, cùng lắm thì bịt miệng trói lại là xong.

Ta nín thở, cầm lấy đệm, định chặn miệng nó trước rồi tính sau.

Biểu muội dụi dụi mắt, khe khẽ nói: “A tỷ, tỷ định đi sao?”

Thấy nó còn biết điều, không gào to gọi người, ta cũng không bịt miệng nó nữa, chỉ trừng mắt thật dữ: “Ngươi mà dám gọi cữu mẫu tới, ta giết ngươi đấy!”

Biểu muội co mình lại trong chăn: “A nương sợ tỷ trốn, bảo muội trông chừng một chút… A tỷ cứ đi đi, muội sẽ không gọi người đâu, vốn dĩ chuyện này…”

Đêm nay trăng sáng, ánh trăng xuyên qua ô cửa nhỏ, chiếu lên cánh tay gầy như cọng rơm của biểu muội, chiếu lên những giọt lệ long lanh trên mặt nó.

“Vốn dĩ là chuyện nhà các người! Đừng hòng kéo ta làm thế thân chịu chết!”

Ta xỏ dép cỏ, không ngoảnh đầu lại chạy đến bên cửa sổ, tháo chốt, chắc chắn cữu mẫu đã khóa cửa, mấy hôm nay ta đã nhân lúc không ai để ý, âm thầm mài lỏng thanh chắn cửa sổ.

Biểu muội theo sau: “A tỷ chờ chút, mấy ngày nay có người đến tìm tỷ.”

Ta khựng bước: “Ai?”

“Người của y quán, còn có người nhà họ Tô, đến mấy lần rồi, a nương bảo tỷ sắp thành thân, không quay lại y quán nữa, nên họ để lại chút bạc rồi đi.”

Ta quay đầu, đập nhẹ lên đầu nó một cái: “Ra khỏi nhà thì lanh lợi lên một chút!”

Không chờ nó nói gì thêm, ta nhảy qua cửa sổ bỏ chạy.

Ta chạy một mạch thật xa, cho đến khi không chạy nổi nữa mới dừng lại thở hổn hển.

Quay đầu nhìn lại, cái viện nhỏ rách nát kia đã bị ta bỏ lại phía sau rất xa, trăng chiếu rọi con đường vừa đi, giọt sương trên ngọn cỏ lấp lánh ánh sáng.

Trên người ta chẳng có đồng nào, cũng chẳng biết đi đâu. Trong thành này không thể ở lại nữa, xem ra chỉ có thể trà trộn vào đám lưu dân, đi ăn xin dọc đường thôi.

Vừa nghĩ thế, chân ta cũng cứ thế bước đi. Trời vừa hửng sáng, ta đã đến trước cổng chợ.

Cửa chợ còn chưa mở, ta ngồi ở chân tường đợi, đoán xem kẻ ngốc kia bao giờ sẽ đến.

Ta cũng chẳng rõ tìm nàng để làm gì, có lẽ để gạt chút bạc chăng, dù gì cũng là kẻ đáng bị gạt, không gạt nàng thì có lỗi với ông trời.

Nhà nàng có tiền, a cha nó lại có năng lực, nghe nói còn quen biết với mấy quan chức. Nếu ta khóc lóc, quỳ xuống, liệu nàng có giúp ta không? Nếu nàng bằng lòng giúp ta, ta sẵn sàng làm nô làm tỳ cho nhà họ Tô, làm trâu làm ngựa…

Người nhà nàng từng đến tìm ta, vậy chuyện a nương ta đã chết, nàng chắc chắn đã biết. Nàng biết ta ngay từ đầu đã lừa nàng, liệu còn chịu giúp ta không? Hay sẽ trở mặt?

Trong ngực ta như có con cóc nhảy loạn, khiến ta chẳng thể ngồi yên một khắc, đứng dậy đi qua đi lại, cho đến khi mặt trời lên cao, cổng chợ mới mở.

Muốn đến hiệu thuốc thì phải đi qua y quán trước, học đồ tên Tiền Lục đang gỡ tấm ván cửa, phụ giúp là cô nương trạc tuổi ta, da trắng, cằm nhọn, giống như cánh sen vậy.

Tiền Lục thấy ta thì khựng lại: “Tiểu Viên tỷ tỷ, sao tỷ lại đến đây?”

Ta nói, ta không thể đến à?

Ta liếc mắt nhìn cô gái lạ kia: “Nó là ai?”

Tiền Lục mặt mày lúng túng: “Đây là A Song, học đồ mới đến y quán.”

Ta chỉ cười nhạt. Người ta đã hỏi đến tận cửa, ngươi không tới, tất nhiên phải để chỗ lại cho người khác, chẳng lẽ bắt người ta giữ vị trí cho ngươi cả đời?

Nàng kia khá lanh mắt, chớp đôi mắt to cười hiện hai lúm đồng tiền: “Tiểu Viên tỷ tỷ, muội thường nghe Tô tỷ tỷ nhắc đến tỷ.”

Tiền Lục nói: “A Song và a nương nàng ấy từng mắc ôn dịch, được Tô nương tử cứu. A Song biết chữ, đúng lúc Tiểu Viên tỷ tỷ rời đi, nên thay chỗ của tỷ.”

Tiểu cô nương kia nói: “Tô nương tử thường khen tỷ thông minh, chỉ vài ngày đã nhận được mấy trăm loại dược liệu, muội đuổi theo cũng không kịp…”

Ta như bị người ta vung gậy đập thẳng vào mặt.

“Tiểu Viên tỷ tỷ đừng đứng mãi thế, vào ngồi chơi một chút đi.” Tiểu cô nương mời gọi, “Muội đi nấu trà táo, Tô nương tử thích nhất là trong trà táo rắc thêm một chút…”

Ta chưa từng biết kẻ ngốc ấy thích uống loại trà nào.

Ta không đáp lời, xoay người quay lại đường cũ.

“Chút nữa Tô nương tử sẽ đến, tỷ không đợi sao?”

“Không đợi.”

Về đến nhà cữu mẫu thì đã gần trưa, từ xa ta đã nghe thấy tiếng cữu mẫu mắng chửi, tiếng biểu muội khóc lóc.

Ta đứng ngoài cửa quát lớn: “Gào cái gì như nhà có tang vậy!”

Hôm sau, ta thay bộ y phục mới, búi tóc cài hoa, mợ nhờ người mượn một cỗ xe lừa, đưa ta tới phủ Sĩ Mã.

Lúc sắp đi, cữu mẫu vừa lau nước mắt vừa dặn ta cẩn thận giữ mình, ta đáp: “Mụ đĩ già nhà bà cút xa cho khuất mắt, đừng có buồn nôn ta nữa.”

Những chuyện về sau thì dễ rồi, chẳng qua cũng chỉ là tranh giành trong máng chó, ta vốn làm quen rồi.

Cữu mẫu không nhìn lầm, loại như ta, dòng giống tù tội, hạng hạ tiện, sinh ra là để lăn lộn trong bùn lầy, càng dơ bẩn, càng tanh hôi, ta lại càng như cá gặp nước.

Từ đó về sau, ta không còn phải chịu đói thêm một ngày nào nữa. Nhưng ngọn lửa trong bụng lại cháy lên, lần này dữ dội hơn bao giờ hết, như muốn thiêu rụi cả thân xác ta.

Ta theo Sĩ Mã Thứ sử được hai năm, hắn chê ta lớn nhanh quá, bèn đem ta tặng cho một đồng liêu khác. Người kia lại dẫn ta theo nhậm chức, từ Thục Trung đến Vu Thành, sau đó lại phạm tội, cây đổ khỉ tan, ta lại bị đẩy tới Lạc Dương, rồi đến Trường An.

Từ nơi này đến nơi khác, chẳng qua chỉ là đổi một vũng bùn khác.

Trong mọi vũng bùn ta từng ở, ta thích Vu Thành nhất, không chỉ vì cái tên của nó, mà còn vì ở phía nam thành có một tòa nhà hoang.

Lúc rảnh, ta thường một mình dạo chơi trong đó.

Ta thích những cây cột mục và lan can gãy, thích đám cỏ dại và dây leo mọc loạn, thích nhất là hồ sen trong vườn.

Hồ sen không có sen, chỉ có bèo và rong phủ đầy mặt nước, nhưng ta cảm thấy nó lẽ ra nên trồng đầy sen mới phải.

Đi mỏi, ta sẽ ngồi bên hồ, nhặt sỏi ném xuống nước.

Bèo tách ra rồi lại tụ lại, lá mở ra rồi lại khép vào, trong lúc tách hợp ấy, đôi khi ta có thể thấy những con bọ nước hay cá nhỏ bơi lội.

Nói ra thì lạ, từ sau khi rời Thục Trung, ta rất ít nghĩ đến kẻ ngốc ấy. Nhưng cứ một mình đi dạo trong vườn, ta lại vô cớ nhớ tới nàng.

Vài năm đã qua, không biết còn ngốc như xưa không? Có còn hay bị người ta lừa không?

Mấy năm trước, khi hai ta còn cách nhật gặp nhau ở hiệu thuốc, ta cách ba hôm năm bữa là lại thấy nàng bị người ta lừa. Có lần ta không nhịn nổi mà hỏi: “Ngươi thật sự không nhìn ra người kia đang gạt ngươi sao?”

Kẻ ngốc ấy chỉ mỉm cười: “Nhỡ đâu hắn nói thật thì sao? Một quan tiền này biết đâu có thể cứu mạng ai đó. Nếu hắn lừa ta, thì ta chỉ mất một quan tiền, nhưng thế gian này sẽ ít đi một người khổ sở.”

Bây giờ chắc nàng vẫn còn ngốc như thế, không thể trông mong một kẻ ngốc tự nhiên trở nên thông minh.

Ta lại nhớ đến tiểu cô nương có gương mặt như cánh sen ấy, người từng gặp nhiều rồi, nhìn lại, ta cảm thấy trong mắt nàng ta có một thứ gì đó khiến ta không thích.

Nhưng rồi ta lại nghĩ, mẹ nàng ta là thật, bệnh cũng là thật, ít ra còn hơn một kẻ lừa đảo, kẻ xuất thân trộm cướp như ta.

Lúc không có ai tìm đến, ta thường ngồi trong căn nhà hoang đó cho tới tối mịt.

Có người bảo nhà đó có ma, đủ loại truyền thuyết, trong đó ta thích nhất một chuyện: nói rằng thời tiền triều có một hoàng đế, lúc đó còn chưa đăng cơ, mệnh số bẩm sinh chẳng tốt, có cao nhân hiến kế, bảo hắn đem mấy chục thê thiếp giết sạch rồi chôn dưới một mảnh đất phong thủy, sau đó xây một tòa nhà đè lên vong hồn, như vậy thì đời đời con cháu được phú quý vinh hoa.

Ta chẳng sợ chút nào, dù sao ta cũng chẳng giống người. Nếu truyền thuyết là thật, thì những hồn ma kia cũng chỉ là những nữ nhân bị người ta giết hại mà thôi, có gì đáng sợ?

Mà chuyện nhà đó có ma, tám phần là thật. Có lúc bước đi giữa đám cỏ hoang, ta thường cảm thấy nghe được hai nhịp tim, một là của ta, một là của căn nhà ấy.

Thỉnh thoảng hai nhịp tim lại hòa làm một, tựa như ta và căn nhà ấy cũng hợp lại làm một thể.

Trong bụng ta có một ngọn lửa, nó cũng đói.

Biết đâu chính vì vậy, ta mới có thể cảm nhận được nó.

Nó là của ta.

Từ mấy năm trước khi mua lại nơi này, ta đã xem căn nhà ấy là của mình rồi.

Danh tiếng ma quái vang xa, dân Vu Thành không ai dám bén mảng đến gần, nhưng thi thoảng vẫn có kẻ không biết điều lạc vào đây.

Một hôm ta đi dạo mỏi chân, tựa vào gốc liễu bên hồ ngủ quên, chẳng may ngủ tới tận khi trời tối.

Tỉnh dậy, ta nghe thấy cách đó không xa vọng đến tiếng nam nhân chửi rủa, cùng tiếng nữ nhân và trẻ con khóc gào.

Lại có đám lưu dân không rõ sự tình mò vào đây ngủ tạm qua đêm.

Ta bước về phía có tiếng động, nghe thấy cả tiếng tát tai, tiếng gậy gộc nện vào da thịt.

Tiếng khóc của nữ nhân dần nhỏ lại, thành tiếng nức nở yếu ớt, tiếng chửi mắng của nam nhân và tiếng khóc trẻ con thì ngày càng lớn.

Ta không bước tiếp nữa nam nhân đánh nữ nhân, thậm chí đánh cả trẻ con, đặt ở đâu cũng chẳng phải chuyện gì lạ.

Dù là đám lưu dân sống nay chết mai, chỉ cần nữ nhân và trẻ con, thì vẫn có thể đánh chửi để trút giận.

Ta chẳng muốn quản, nhưng ngọn lửa trong bụng thiêu đốt ta. Có lẽ do vừa rồi ngủ quên bỏ lỡ bữa tối, ta đang rất đói.

Căn nhà này cũng đang đói.

Đói thì phải ăn, đó là đạo lý hiển nhiên của trời đất.

Đang nghĩ thế, ta nghe thấy tiếng gậy gộc rơi xuống đất, tiếp theo là tiếng “rốp rốp” như chó hoang đói lả đang xé thịt sống.

Tựa như có thứ máu mặn tanh trượt qua cổ họng ta, rơi vào bụng, ngọn lửa trong người ta hạ xuống.

Ta đứng tại chỗ rất lâu, mãi đến khi nữ nhân đầu bù tóc rối, áo quần tả tơi, bế đứa con lao ra ngoài, vừa khóc vừa gào “mặt, mặt”, ta mới hoàn hồn.

Đợi bà ta chạy xa, ta mới chậm rãi băng qua đám cỏ, trèo lên hành lang mục nát, bước vào căn nhà kia.

Thứ nằm giữa đất thoạt nhìn như hình người, nhưng gầy quá mức, dù là lưu dân da bọc xương cũng không thể gầy đến thế. Ta tiến lại gần, mượn ánh trăng mới nhìn rõ đó chỉ là một đống xương người.

Ta đứng nhìn một lúc, rồi rời khỏi căn nhà.

Hai ngày sau, ta nghe nói về chuyện ma quái ở ngôi nhà đó, nữ nhân lưu dân kia đi báo quan, bảo rằng nhà hoang đã ăn mất chồng bà ta. Bọn nha sai tìm được đống xương, lại nói bà ta bịa đặt, đánh cho một trận rồi bỏ qua.

Chẳng bao lâu, ta rời khỏi Vu Thành, dạt đến Lạc Dương, trở thành kỹ nữ.

Bên người ta có thêm một a hoàn.

Nó bị bán vào kỹ viện để gán nợ, vừa đần vừa chậm, cả ngày bị tú bà đánh mắng, bị đám kỹ nữ sai khiến, cũng không dám hé một tiếng, chỉ biết rúc vào góc tường khóc.

Cả đời ta ghét nhất là loại người vừa ngu vừa vô dụng, càng ghét những kẻ như vậy suốt ngày khóc lóc. Ta xin luôn tú bà đưa nó về chỗ mình.

Không ngờ nó vẫn hay khóc như cũ, mỗi lần khóc, đôi mắt như vầng trăng bị mưa rửa trôi, vì thế ta đặt tên cho nó là Hoán Nguyệt.

Vòng vo mấy năm, không ngờ cuối cùng ta thực sự mua lại được ngôi nhà hoang ở Vu Thành.

Với một kỹ nữ mà nói, tích cóp của ta không phải ít, nhưng để mua được căn nhà to như vậy thì vốn dĩ không đủ, may nhờ cái chết của tên quan họ Lưu kia.

Cố thượng thư muốn tiến thêm một bước, căn nhà hoang đầy tiếng đồn ma quái của nhà họ Cố trở thành củ khoai nóng bỏng tay.

Họ vội vàng tìm cách đẩy đi, ngược lại lại để ta vớ được món hời.

Tiền còn dư cũng đủ để tu sửa.

Bán thân thêm vài năm nữa, ta sẽ có thể trở lại Vu Thành, trồng đầy sen trong hồ, đủ loại quý hiếm kỳ lạ, sen ta gọi được tên và sen ta chưa từng nghe đến, đương nhiên không thể thiếu sen hai màu.

Ta đã nghĩ kỹ rồi. Kẻ ngốc kia dễ gạt như thế, chờ đến khi a cha nàng chết, tám phần là giữ không nổi gia sản. Nếu nàng bị người ta bắt nạt, chẳng có nơi nào dung thân, thì ta sẽ nhặt nàng về.

Không biết nàng có sợ ma không, nhưng loại ngốc như nàng, chắc đến cả ma cũng chẳng thèm dọa.

Ta vẽ đầy hoa sen trong cái ao to bằng bàn tay trên bản đồ, lại vẽ riêng một viện cho kẻ ngốc kia, nơi ấy phải trồng cả rừng phong, góc này trồng đào, bên kia trồng mấy gốc mai, để bốn mùa đều có hoa mà ngắm.

Sân viện của nàng phải hướng mặt trời, không được bị che khuất. Dưới lan can trồng vài thứ cỏ thơm đuổi muỗi, phía đông dựng một cái khung xích đu…

Ta vừa đối chiếu bản đồ vừa nghĩ ngợi, chỗ này vẽ chút, chỗ kia thêm vài nét, mãi tới khi giật mình sực tỉnh, kẻ ngốc kia tám phần là đã lấy chồng rồi.

Người ngốc có phúc của người ngốc, có lão hồ ly cha nàng lo liệu, chắc cũng không tệ.

Nếu sau này con cháu bất hiếu, ta sẽ nhặt nàng về. Đến lúc đó một mụ già đanh đá như ta, một bà lão ngốc nghếch móm mém như nàng, cùng ngồi trên xích đu hong nắng.

Nhưng kẻ ngốc đó sao lại biến mình thành ra thế này?

Mười năm sau khi rời Thục Châu, ta lần đầu tiên quay về quê nhà.

Ta muốn xem kẻ ngốc đó sống thế nào, đến nơi mới biết nhà họ Tô đã dọn đi. Nghe ngóng đủ đường, tin đồn thật giả lẫn lộn, có kẻ nói nàng gả cho một thư sinh, có người bảo nàng bỏ trốn với một gia nô nhà họ Tô, lại có người nói nàng bị ruồng bỏ, theo huynh trưởng lên Kiến Nghiệp nương nhờ.

Ta lại tới Kiến Nghiệp, lần này rốt cuộc cũng tìm được nàng.

Người ta đầu tiên ta gặp là huynh trưởng của nàng.

Hồi ở Thục Châu, ta từng nghe nói cha nàng tuổi già không sinh được con, bèn nhận một đứa cháu trong tộc làm con thừa tự, nối dõi hương hỏa.

Vừa nhìn tên đó ta đã biết là loại cặn bã, vì ta cũng là loại người như vậy.

Tô Đình Viễn có một gương mặt không tệ, đầu óc khôn vặt, tưởng nữ nhân thiên hạ ai cũng phải xoay quanh mình.

Loại nam nhân này ta gặp mấy chục, mấy trăm tên rồi.

Tô Đình Viễn còn tệ hơn cả đám cặn bã bình thường. Từng có một kỹ nữ đem hết tiền dành dụm giao cho hắn, kết quả người mất của tan, suýt chút nữa thắt cổ chết.

Nghe ngóng thêm, thì biết Tô lão gia và lão quản sự đều đã chết, trùng hợp chuyến thuyền đến Kiến Nghiệp cũng bị lật, rốt cuộc toàn bộ tài sản nhà họ Tô đều rơi vào tay một mình hắn. Còn Tô Lạc Ngọc, nữ nhi duy nhất, thì phải nhìn sắc mặt huynh trưởng mà sống.

Ta quyết định trước tiên phải thăm dò hắn.

Cũng chẳng khác gì cảnh tranh giành trong máng chó mà thôi.

Đối phó loại nam nhân như thế dễ như trở bàn tay. Ta chỉ cần hé lộ chút tiền bạc, nói vài câu giao du với quyền quý kinh thành, hắn lập tức sáng mắt như chó đói thấy thịt.

Giao thiệp mấy lượt, ta gần như có thể chắc chắn: cái chết của Tô lão gia, vụ chìm thuyền nhà họ Tô khi ấy, tám phần là do hắn ra tay.

Ta ngẫm nghĩ mấy ngày, định bụng trước tiên gả cho hắn, rồi tìm cách giết chết. Đã thành thân thì dễ ra tay hơn, cứ từ từ hạ độc, ai cũng không nghi ngờ.

Dù có trách nhầm thì cũng chẳng sao. Chết rồi là xong.

Nhưng cứ hễ ta nhắc đến chuyện cưới hỏi, hắn lại nói lảng sang chuyện khác, mắt láo liên, sống chết không chịu cho một lời chắc chắn.

Ta làm một trận ầm ĩ, hắn vẫn không chịu thuận, ngược lại còn ra vẻ long trọng tặng ta một món “đại lễ” để tỏ lòng chân thành.

Vừa nhìn thấy thứ lễ đó, ta lại muốn bật cười.

Quả nhiên ta không nhìn lầm kẻ ngốc ấy, đến thứ mình trân quý nhất là cây đàn cổ kia mà cũng không giữ nổi, để “ca ca tiện nghi” ấy mang đi lấy lòng một ả kỹ nữ.

Ta thật không nhịn nổi, dò hỏi được rằng đến rằm nàng sẽ đến chùa Sùng Phúc dâng hương, bèn ôm cây đàn tới chùa.

Mười năm sau, ta lại gặp kẻ ngốc đó.

Ta vốn đã đoán được nàng sống chẳng khá gì, nhưng không ngờ nàng lại để bản thân thành ra thế này.

Mới chưa đến ba mươi, tóc đã lốm đốm bạc, trán và đuôi mắt đều hằn nếp nhăn, gương mặt hóp lại, mí mắt lại sưng, khóe mắt trễ xuống, lòng đen cũng vẩn vàng, chẳng còn chút thần sắc nào.

Vừa nhìn thấy cây đàn, nàng lập tức bật khóc.

Ta liền biết mình sai rồi. Sai hoàn toàn rồi.

Thần sắc như thế, khóc lóc như thế, ta đã thấy biết bao lần. Những nữ nhân si tình trên đời này, khi bị kẻ bạc lòng vứt bỏ, khóc lên đều có vẻ mặt ngốc nghếch như vậy.

Bọn họ tuyệt đối không phải huynh muội. Không thể là huynh muội.

Kẻ ấy còn ngốc hơn ta tưởng, còn vô dụng hơn cả ký ức của ta về nàng.

Vậy mà nàng còn mặt mũi để khóc.

Vừa nhìn bộ dạng nhục nhã của nàng, trong lòng ta liền dâng lên một cơn giận dữ độc địa.

Ta muốn nói với nàng đừng si mê loại nam nhân đó nữa, muốn nói chi bằng theo ta đi, muốn nói ta đã mua một căn nhà ở Vu Thành, có rất nhiều phòng, đủ cho nàng ở thoải mái. Sau nhà còn có một khu vườn lớn, trong vườn có cái ao không to không nhỏ, ta có thể trồng đầy sen, ngay cả giống sen hai màu mà nàng từng mơ ước năm nào, ta cũng có thể tìm được.

Thế nhưng ta vừa mở miệng, tất cả đều không nói ra được.

Ta chỉ cười, hỏi nàng sao lại khóc. “Ca ca thành thân chẳng phải là chuyện vui sao?”

Nó khóc suốt nửa ngày trời, rốt cuộc cũng dừng lại, dùng đôi mắt vẩn đục, vàng vọt, đỏ hoe nhìn ta: “Tiểu nương tử, hắn không phải người tốt. Ngươi còn trẻ, không nên vì hắn mà uổng phí tháng năm tốt đẹp.”

Ta tức đến mức sắp bật cười. Nói với một kỹ nữ cướp nam nhân của mình những lời này, nàng tưởng mình là Bồ Tát chắc?

“Tô nương tử hiểu chuyện hôn sự lắm sao? Thế thì sao giữ không được nam nhân, bị đuổi về nhà, không nơi nương tựa phải tìm đến ca ca mình, giờ lại còn quản chuyện hôn nhân của huynh trưởng nữa à?”

“Người biết chuyện thì bảo là muội quan tâm huynh, không biết lại chẳng nói ‘quản chuyện hơi rộng’ sao?”

“Ở nhà phu quân ở không được, giờ lại bám lấy ca ca không cho thành thân, ngươi là dây tơ leo không thể sống thiếu nam nhân, hay là dây trường xuân gặp ai quấn chết người ấy?”

“Ngươi trơ mặt thế này, có thấy có lỗi với a cha nơi suối vàng không?”

Ta dùng những lời khó nghe nhất để sỉ nhục nàng, thấy mặt nàng đỏ bừng lên, trong lòng ta như có rắn độc bò trườn, vừa cay nghiệt vừa khoái trá.

“Người này, ta nhất định phải lấy.” Nói xong, ta ôm đàn, ngẩng cao đầu, bước ra khỏi thiền phòng.

Về đến Tầm Hương Lâu, ta nghe thấy Ngô Mị Khanh đang cùng một kỹ nữ khác bàn tán chuyện Tô gia. Thấy ta bước qua, ả cố ý nói lớn: “Cái ổ bẩn thỉu đó mà cũng có người chen nhau nhảy vào. Không nghe nói Tô đại lang với muội muội hắn có chuyện chẳng sạch sẽ sao?”

Ta dừng bước lại: “Ai không sạch sẽ?”

Ngô Mị Khanh mỉm cười: “Chẳng phải ngươi vừa từ chùa Sùng Phúc về sao? Còn làm bộ hồ đồ nữa à?”

Từ khi ta bước chân vào Tầm Hương Lâu, Ngô Mị Khanh đã không ưa gì ta. Tú bà nơi này là người quen cũ của ta, ta cũng chẳng muốn vì cái miệng tiện của ả mà khiến tú bà khó xử, bèn ôm đàn lên lầu. Nhưng vẫn nghe thấy ả tiếp tục nói vọng theo: “Nghe đâu muội muội của hắn xấu kinh khủng, nhìn còn già hơn hắn mười tuổi, mặt có một vết sẹo như sâu bò, thế mà Tô đại lang vẫn chẳng chê xấu. Không biết nữ nhân đó phải lẳng đến mức nào mới quyến rũ ca ca mình làm ra cái chuyện ghê tởm ấy.”

Ta giao cây đàn cho Hoàn Nguyệt, bảo nó lên lầu trước. Sau đó ta bước xuống, đi đến trước mặt Ngô Mị Khanh: “Ngươi vừa nói ai?”

Trên người Ngô Mị Khanh đã có mùi sợ hãi, nhưng mồm vẫn không ngừng được: “Sao, ta nói huynh muội Tô gia, liên quan gì đến ngươi? Chưa làm được tẩu tẩu người ta đã đau lòng như thật…”

Ả ta còn chưa kịp nói hết câu, đã bị một tiếng “choang” giòn tan cắt ngang.

Ta đập vỡ một cái bình hoa, đẩy ả ngã lăn ra đất, dùng đầu gối đè chặt lấy, một tay túm cổ áo, tay kia cầm mảnh sứ vỡ cắm vào cái cằm trắng nõn của ả.

“Giờ thì ngươi cũng có một vết sẹo như sâu bò rồi đấy.”

Chuyện kết thúc bằng việc Ngô Mị Khanh rời khỏi Kiến Nghiệp. Tú bà đưa cho ả một khoản tiền bịt miệng, ra ngoài thì chỉ nói là đắc tội khách làng chơi nên bị đánh, bị hủy dung. Dù sao thì ta mới là con gà biết đẻ trứng vàng.

Ta nghĩ, ả sớm muộn gì cũng chết vì cái miệng của mình.

Về sau ở Vu Thành, ả biết thân phận của ta, hí hửng mò tới đòi tiền. Nhìn bộ dạng đã quá sa sút của ả, ban đầu ta định cho ít bạc rồi cho qua, nhưng ả lại cứ lắm lời:

“Cũng nhờ cái sẹo trên mặt, cái lão họ Lý già chết tiệt đó mới ba bữa lại dúi tiền cho ta. Ai dè lão nghĩ đến Tô gia tiểu lãng phụ kia, tiểu lãng phụ đó quyến rũ được cả huynh trưởng, với lão Lý tám phần cũng không sạch sẽ…”

“Nó chết rồi, có phải ngươi ra tay không? Có phải ta đoán trúng rồi không? Ha ha! Ngươi yên tâm, mỗi tháng chỉ cần thêm năm lượng bạc, đúng hạn giao tiền, ta sẽ mang hết mấy chuyện đó theo xuống mồ.”

Ta nói rồi mà, ả sớm muộn gì cũng chết vì cái miệng đó.

“Giả bộ giống thật lắm, ngươi dám nói con nha đầu Tô gia kia không phải bị ngươi hại chết sao?”

Kẻ ngốc đó… có phải ta hại chết nó không? Về sau ta thường xuyên tự hỏi. Nhưng người biết được đáp án thì vĩnh viễn sẽ không mở miệng nữa rồi.

Sau khi hủy mặt Ngô Mị Khanh, ta đổ bệnh.

Bao nhiêu năm nay ta chưa từng ngã bệnh, lần này lại phát sốt liền mấy ngày, tựa như ngọn lửa tích tụ cả đời đang thiêu cháy một lần cho hết.

Nằm mê man trên giường, ta từng nghĩ mình sẽ chết vì cơn bệnh này. Nhưng tai họa sống ngàn năm, hai tuần sau, ta khỏi bệnh.

Ta quyết định, không lo cho kẻ ngốc ấy nữa.

Ta đi Vu Thành.

Lần này là lần đầu tiên ta bước vào căn nhà mình đã mua.

Ta như hồn ma vất vưởng quanh đó một vòng. Nhưng thứ hiện lên trong mắt ta không phải cỏ hoang hay tường đổ, mà là cột son đỏ thắm, mái ngói đen bóng, lá sen xanh biếc chen giữa muôn đóa hoa đang nở, và chiếc xích đu hướng dương có hai lão nhân không răng ngồi cạnh nhau sưởi nắng.

Rồi ta quay lại Kiến Nghiệp.

Lần này ta hạ quyết tâm: nhất định phải mang kẻ ngốc ấy đi.

Kẻ cặn bã đó có thể xử sau, ta không thể để kẻ ngốc ấy lại trong hang ổ của chó sói.

Vừa về tới Kiến Nghiệp, ta liền nghe tin nhà họ Tô xảy ra chuyện, kẻ ngốc đó bị giam lại, còn phát bệnh.

Ta định xông vào mang nàng đi, thì nhận được tin nhắn do nàng cực khổ lắm mới nhờ người mang đến.

Nàng nói muốn gặp ta một lần.

Muốn gặp nàng chẳng khó, Tô Đình Viễn đang không có ở Kiến Nghiệp, đám gia nhân nhà họ Tô ai cũng biết ta sắp gả cho chủ nhân của bọn họ, chẳng ai dám thật sự ngăn cản ta.

Ta lao đến tiểu viện nơi nàng bị nhốt, cửa viện khóa kín.

Ta bảo bọn họ mở khóa, bước vào trong phòng, liền ngửi thấy một mùi khó chịu nồng nặc, như là hoa thối rữa, hoặc cơm bị ôi.

Rồi ta nhìn thấy nàng.

Kẻ ngốc ấy nằm trên giường, nhắm nghiền mắt, có người đến cũng không biết. Cánh tay đặt ngoài chăn chỉ còn da bọc xương, nhưng bụng dưới chăn lại nhô cao.

Nàng có thai rồi.

Không sao cả.

Dù mang dòng máu của kẻ cặn bã kia, nhưng đó vẫn là cốt nhục của nàng.

Chúng ta có thể cùng nhau nuôi đứa nhỏ, có thêm một đứa trẻ thì ngôi nhà càng thêm ấm cúng. Bên cạnh khung xích đu lớn còn có thể dựng thêm một cái xích đu nhỏ.

Nghĩ vậy, ta nhẹ nhàng nắm lấy tay nàng, đặt ngón tay lên cổ tay nó để bắt mạch.

Vừa đặt vào, ta đã biết xích đu nhỏ không còn, xích đu lớn cũng không còn.

Ta đặt tay nàng trở lại chăn.

Nàng mở mắt.

Nàng nhìn mặt ta thật lâu, như thể chỉ để nhận ra ta thôi cũng đã hao hết sức lực.

Một lúc lâu, cuối cùng nó cũng nhận ra: “Là Tiêu nương tử sao…”

Ta muốn nói: “Là ta đây, ta là Tiểu Viên, ngươi còn nhớ ta không?” 

“Ta muốn nói: “Đừng ở lại nơi tối tăm lạnh lẽo này nữa, ta sẽ đưa ngươi đến một chốn có hoa, có cây, có nắng ấm.”

Nhưng vừa mở miệng ra, những gì ta định nói đều chẳng còn đúng nữa.

Ta hỏi nàng: “Vì sao muốn gặp ta?”

“Nữ lang, ta chẳng còn sống được bao lâu.” Nàng cười khẽ, “Chỉ là vẫn muốn khuyên ngươi một câu, đừng gả cho hắn, hắn không phải lương phối… Ngươi còn trẻ, đừng giống như ta, trót cả đời đặt sai chỗ.”

Ta nói: “Cho dù hắn không cưới ta thì cũng sẽ cưới kẻ khác, ngươi cản được ta, cản nổi cả thiên hạ chắc?”

Ta nói: “Cho dù nhà họ Tô là hố lửa, ta không nhảy thì cũng có người khác nhảy vào, sao ngươi cứ khăng khăng ngăn ta?”

Nàng nhắm mắt lại, rất lâu không đáp, lâu đến mức ta tưởng nàng đã chết, mãi sau mới khẽ nói: “Lần đầu tiên nhìn thấy ngươi… ta liền nhớ tới một người bạn cũ…”

“Người đó giờ ở đâu?”

Nàng lắc đầu: “Hơn mười năm rồi… chẳng có lấy một tin tức.”

Ta khẽ siết lấy vạt áo, lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi.

“Ngươi muốn gặp lại người ấy sao?” Ta hỏi.

Nàng ngẩng nhìn đỉnh màn, nhưng như đang nhìn về nơi rất xa, rất xa. Một lúc sau, nàng khẽ lắc đầu, cười nhợt: “Dù nàng không nói, ta vẫn biết nàng luôn nghĩ ta ngốc… Giờ ta thế này, vẫn là không nên để nàng thấy.”

“Chưa chắc nàng đã nghĩ thế.”

Nàng không đáp, chỉ khẽ lắc đầu.

Ta nói: “Ngươi bị người ta hạ thạch tín, tự mình biết chứ?”

Nàng sững người, ôm lấy bụng, nhưng ta nhìn ra, thật ra nàng đã sớm biết rồi. Chỉ là bị ta nói toạc ra, chẳng còn cách nào tự lừa mình nữa.

Ta nói: “Đứa trẻ trong bụng ngươi không giữ được đâu. Có chăng sinh ra cũng không lành lặn.”

Nàng lại rơi nước mắt. Ta nghĩ mãi không thông, đôi mắt đã đục ngầu như thế, sao nước mắt chảy ra vẫn trong như nước tịnh bình?

Ta hỏi: “Ngươi sống bao nhiêu năm như thế, chưa từng nghĩ đến việc rời bỏ hắn sao?”

Nàng lại im lặng rất lâu, rồi thở dài khe khẽ: “Không làm được nữa rồi…”

Ta nói: “Kỳ thực ngươi vẫn luôn biết hắn là hạng người gì, đúng không?”

“…Ngươi là ai?” nàng hỏi.

Ta muốn nói: Ta là Tiểu Viên. Theo ta về nhà thôi.

Nhưng không kịp nữa rồi. Lúc bắt mạch ta đã biết, nàng không sống nổi để đến Vu Thành, càng không sống nổi để trở về nhà.

“Ta là Tiêu Nguyên Chân.” Ta đứng dậy. “Ngươi không cần khuyên ta, ta biết rõ Tô Đình Viễn là hạng người gì. Nhưng ta vẫn sẽ lấy hắn.”

Đã không kịp quay đầu nữa rồi. Trước mặt ta bây giờ, chỉ còn một con đường.

Trước khi rời khỏi nhà họ Tô, ta gặp một người.

Nàng cao hơn, lớn hơn, nhưng ta vẫn nhận ra, gương mặt giống cánh sen ấy, là A Sương.

Ta tìm người dò hỏi. Bao năm nay nàng làm nữ y ở Thục Châu, chữa nhầm một thị thiếp của Tham quân, bị liên lụy, bỏ trốn tới Kiến Nghiệp, nương nhờ nhà họ Tô.

Ta tính lại thời gian nó đến nhà họ Tô… nó có thể cứu được nàng ấy.

Về sau ta trói tay chân Tần Sương, nhốt nàng ta trong lán của Cát Thương Đầu. Nàng ta khóc lóc bảo là bị Tô Đình Viễn bức ép. Ta hỏi: “Một trăm lượng bạc kia cũng là hắn ép ngươi nhận à?”

Bị ta bức đến cùng, nàng mới chịu nói thật.

Nàng nói chỉ muốn tích đủ tiền để mở y quán riêng. Nàng không muốn dây vào chuyện nhà người khác. Tô Lạc Ngọc muốn trách thì trách bản thân quá ngốc. Loại người tốt lầm như nàng, đáng bị moi sạch đến tận xương.

“Ngươi có biết không?” Nàng nói, “Tô Lạc Ngọc cuối cùng là bị đói mà chết đấy. Từ lúc ngươi rời đi, nàng không ăn thêm một thìa cháo nào.”

Ta rạch mấy vết trên người Tần Sương, để cho chảy máu đủ rồi mới băng lại. Dùng giẻ bẩn bịt miệng nàng, trói tay chân, nhét vào hố đất dưới lán.

Nàng vật vờ mấy ngày, cuối cùng chết đói trong đó.

Người chết rồi, thi thể vẫn còn hữu dụng.

Ta khoan hai đầu xương của nó, xâu lại bằng dây đàn, treo lên xà nhà.

Để qua mặt người khác, ta chặt tay trái của mình.

Ta không thể đánh đàn, không thể gảy tỳ bà nữa, nhưng ta không thấy tiếc.

Tay phải vẫn còn. Ta có thể bắt mạch, có thể kê đơn.

Biết đâu, ta cuối cùng cũng có thể giống như đứa ngốc kia từng kỳ vọng, ngoan ngoãn làm một nữ y, mở một y quán nhỏ.

Chỉ tiếc là những trò vặt ấy không lừa nổi đám đạo sĩ kia.

Ta không biết bọn chúng từ đâu tới, chỉ biết chẳng phải người của Thanh Vân Quán.

Ta sớm nên để Cát Thương Đầu giết quách bọn chúng đi rồi.

Lão Cát đó, cũng là một kẻ vô dụng. Vì một bữa cơm thừa mà mất cả mạng.

Cũng là một kẻ ngốc.

Lão ta nói nhất định là Chi Nương của lão đã cầu Phật, nên Phật Tổ mới phái hai tiểu cô nương tới độ mình.

Ta bảo: “Lão già chết tiệt, lão cũng tưởng bở thật. Nhìn cái tay bẩn thỉu của mình xem, Phật Tổ sẽ để mắt đến à? Chỉ tổ phá chuyện của ta, chết sớm chút cho sạch sẽ.”

Lão đau đến mồ hôi đầy đầu, răng suýt cắn vỡ.

Lão trừng trừng nhìn ra cửa, bảo là thấy Chi Nương đến đón rồi.

Ta không tin, nhưng vẫn liếc nhìn ra cửa một cái, tất nhiên chẳng có Chi Nương nào cả.

Đợi đến khi ta quay đầu lại, Cát Thương Đầu đã tắt thở, là cười mà chết.

Ta có hơi dao động… biết đâu nữ nhi lão ta thật sự tới đón?

Thực ra… ta có chút ghen tỵ với lão ta. Đến khi ta chết, sẽ chẳng có ai đến cả. Ta chỉ có thể đơn độc xuống địa ngục.

Còn kẻ ngốc ấy, cả đời hành thiện tích đức, nhất định đã lên trời rồi.

Nếu từ nay trở đi nếu ta chuyên tâm trị bệnh, trị mấy chục năm, cứu thêm nhiều người, thì đến khi ta chết, liệu có thể lên trời nhìn kẻ ngốc ấy một lần không?

Ta chỉ muốn nhìn xem kẻ ngốc ấy có sống tốt không… rồi thì ta sẽ yên ổn mà xuống địa ngục, bị dao chém cũng được, bị ném vào chảo dầu cũng được, mặc người ta xử trí.

…Hình như ta lại có một chút gì đó để trông mong.

Ta bỏ ông già vào túi vải, vác lên lưng. Nhân lúc Trạc Tinh còn chưa tỉnh dậy, ta đưa lão ấy trở về nơi lần đầu “thấy quỷ”.

Ta có thể để căn nhà đưa lão ấy đi, từ sau khi ta uống máu Tần Sương, ngôi nhà này càng lúc càng nghe lời ta. Đưa một đống xương thì dễ như trở bàn tay.

Nhưng ta vẫn muốn tự mình tiễn lão ấy một đoạn. Lão thật sự rất nhẹ, như thể cả đời lão cũng nhẹ hều và vô giá trị.

Trên trời không một gợn mây, ánh trăng rất sáng, rọi sáng đường đá phủ sương, óng ánh như bạc.

Bây giờ… ngay cả người đi cùng đường, ta cũng chẳng còn.

Ta gỡ lá bùa vàng dán trên cửa, đẩy cửa ra. Ánh trăng từ kẽ cửa tràn vào, ta nhìn thấy người nằm dưới đất.

Người đó đã chẳng còn hình người, giống như một cái hồ lô đầy máu.

Chỉ có đôi mắt là còn sạch sẽ, nhưng cũng sắp đục ngầu rồi, như mây đen sắp che khuất vầng trăng.

Ta biết a hoàn đó đã si mê Tô Đình Viễn, cái tên cặn bã ấy có bản lĩnh ấy mà. Ta từng nhắc nhở nàng đôi ba lần, nhưng nàng không hiểu, hoặc là hiểu mà vờ không biết.

Ta lười quản, để nàng đâm đầu vào tường thì mới biết quay đầu.

Chẳng ngờ đâm quá mạnh… quay đầu không nổi nữa rồi.

…Còn ta, cũng chẳng quay đầu lại được nữa.

Thấy Hoán Nguyệt, ta liền hiểu mọi chuyện ta làm, đều là vùng vẫy vô ích.

Ngọn lửa trong bụng chưa bao giờ tắt. Nó ngày đêm thiêu đốt, đã sớm đốt rỗng ta rồi.

Ta và căn nhà này… đã hòa làm một, chẳng còn phân biệt được nữa. Ta chỉ có thể vĩnh viễn ở lại nơi này, nuốt hết những gì có thể nuốt, máu thịt, linh hồn, thời gian, ánh trăng, ký ức.

Ta đang dần dần nuốt cả chính mình. Dáng vẻ của kẻ ngốc đó, ta đã bắt đầu không nhớ rõ nữa rồi.

Cũng chẳng sao cả.

Đợi đến khi đêm đen phủ xuống, mọi thứ đều sẽ bị nuốt trọn, kể cả bóng tối cũng không ngoại lệ.

Tới lúc đó, ngay cả chính mình ta cũng không còn nhớ, thì đương nhiên cũng chẳng thể nhớ tới kẻ ngốc ấy.

Ta… chẳng lẽ lại còn để tâm đến cây đàn quỷ quái ấy?

Nhưng tại sao ta lại ở đây?

Vết dao trên lưng rất sâu, như chém gãy cả xương, máu không ngừng chảy ra ngoài.

Hình như ta sắp chết rồi, căn nhà cũng sắp chết.

Nền móng đang sụp xuống, xà cột đang gãy, ngói đá như mưa đá rơi lộp độp.

Biết rõ là cái bẫy… vì sao ta vẫn cứ ôm khư khư cây đàn này?

Tô Lạc Ngọc, bao năm nay ta vẫn gọi ngươi là kẻ ngốc.

Nhưng rốt cuộc, ta cũng đã thành một kẻ ngốc rồi.

***

Tinh Nguyệt: Chương này nghẹn quá, nhân quả tuần hoàn…

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *