Mộng hồi Tây Châu – Chương 39

Chương 39: Tòa nhà ăn thịt người (36)

***

Ta từ nhỏ đã ghét nhất những kẻ ngốc.

Lần đầu tiên nghe nói tới kẻ ngốc Tô Lạc Ngọc là khi ta đang leo cây lấy trứng chim.

Đúng lúc giữa hè oi bức nhất trong năm, ve kêu inh ỏi như muốn xé trời, ánh nắng xuyên qua lớp lá cây vẫn cứ gay gắt như thiêu như đốt, phơi lên mặt, nóng đến độ ngày mai thể nào cũng bong một lớp da.

Mồ hôi túa ra từng lớp từng lớp, áo ướt rồi khô, khô rồi lại ướt, giũ nhẹ một cái là có thể giũ ra cả muối.

Thời tiết thế này, không ai muốn trèo lên tận ngọn cây mà hứng nắng, nhưng ta đói quá, bụng như có một ngọn lửa đang cháy âm ỉ bên trong.

Từ tối hôm qua đến giờ, ta chưa ăn được gì. Lần gần nhất được ăn là bữa cháo rau loãng, đếm được vài hạt kê, lác đác mấy cọng rau, ăn xong còn thấy đói hơn.

Từ khi có ký ức, ta đã luôn trong trạng thái đói, ngọn lửa ấy cháy rừng rực trong bụng không ngừng ngày đêm, bao nhiêu cháo rau đổ vào cũng như đổ xuống một cái hố không đáy.

Cữu mẫu mắng ta là quỷ đói đầu thai, e là cũng không oan.

Ta cẩn thận luồn tay vào trong tổ chim, sờ một cái, nhịn không được khạc một tiếng.

Trống không, chỉ còn vài mảnh vỏ vỡ nát, chim non đã nở hết rồi.

Bận rộn nửa ngày trời, đến một sợi lông chim cũng không thấy, ta nguyền rủa tổ chim ấy mười tám đời tổ tông.

Đúng lúc chuẩn bị trèo xuống, dưới gốc cây có hai người đến hóng mát.

“Ngươi nghe chưa? Hiệu thuốc nhà họ Tô có một vị Bồ Tát… chỉ cần khóc lóc một trận, bịa đại mấy câu là nàng ta cho thuốc cho tiền…”

Vừa nghe đến tiền, ta lập tức không vội đi nữa, ngồi thụp xuống nhánh cây, vểnh tai nghe cho rõ.

“Lừa ngươi làm gì!” 

“Tên Tống Tứ khóc một trận, bảo mẹ hắn bệnh nặng sắp chết, thế là xin được hẳn một quan tiền…”

Ta “phụt” cười thành tiếng, tên Tống Tứ đó đúng là có một bà mẹ sắp chết, nhưng là chuyện của mười năm trước rồi, lão nương kỹ nữ đó mắc phải chứng lở loét mà chết, toàn thân thối rữa không còn hình dạng.

Tùy tiện hỏi quanh cũng biết chuyện này, ta thật muốn xem thử ai lại ngu đến mức như vậy.

“Là ai ngu đến thế?” Kẻ dưới gốc cây vừa vặn hỏi ra đúng điều ta nghĩ trong bụng.

“Là tiểu nương tử nhà họ Tô, dạo gần đây còn học theo phụ thân nàng quản sổ sách đấy.”

“Chậc, lão già họ Tô ấy tinh như cáo, đến cả đồng tiền đồng kẽm cũng vắt được nước, sao lại sinh ra nữ nhi hồ đồ như vậy?”

Việc này có gì lạ? Nhà giàu không sinh vài nhi tử phá của, nữ nhi nghếch vung tiền lung tung thì đúng là trái với đạo trời rồi.

Ta ngồi trên cành cây thêm một lát nữa, đợi hai kẻ kia đi khuất, mới tụt xuống đi về phía chợ.

Hạng ngốc nhà giàu như thế còn sống trên đời, chẳng khác nào đứa trẻ con ôm vàng đi khắp nơi, không kiếm chút tiền từ nàng, chẳng phải phụ lòng ông trời sao?

Chỉ tiếc, ta quên mất một chuyện: kẻ ngốc ấy đâu phải ngồi ì trong tiệm cả ngày.

Khó khăn lắm mới tìm đến hiệu thuốc Tô gia, ai dè nàng ta lại chẳng có ở đó.

Không chịu ngồi yên đợi ta tới lừa, thật là vô lý hết sức! Chưa gặp mà ta đã thấy ghét nàng đến tận xương.

Dưới trời nắng như thiêu như đốt, ta đi hai canh giờ, đế giày gần như mòn đến rách, nếu cứ thế mà quay về, cữu mẫu ta nhất định sẽ xúi cữu cữu đánh ta một trận nhừ tử, đến cháo rau tối nay cũng khỏi mơ.

Vậy thì trộm thôi.

Lửa trong bụng càng lúc càng cháy dữ dội, như muốn thiêu thủng cả bụng ta.

Cho dù có chết, cũng phải kiếm được cái ăn, hoặc chút tiền.

Không lừa được thì trộm vậy.

Con chuột con biết đào hang, ta là giống nòi nhà trộm, sinh ra đã biết ăn cắp, từ khi hiểu chuyện là đã trộm vặt rồi: trộm đồ ăn, trộm tiền… Hễ có cơ hội là trộm.

Không phân biệt được dược liệu, thì cứ tiện tay vốc một nắm, dù là thuốc gì cũng có thể đổi lấy đồ ăn.

Đã hạ quyết tâm, ta len lén đứng bên cửa, ngó vào trong.

Hiệu thuốc Tô gia thật đồ sộ, cái biển hiệu to gấp ba lần người ta. Trong tiệm cũng đông, nào là cắt thuốc, cân thuốc, gói thuốc, đếm tiền… cộng với chưởng quầy, tổng cộng năm người.

Ta kiên nhẫn chờ một lúc, lựa lúc đông khách nhất, lén lút cúi người chui vào.

Ngựa sảy chân, ta bị bắt.

Bọn họ chẳng tốn mấy công sức, vì ta vừa chộp được gói thuốc chạy ra khỏi tiệm thì lại đói đến mức hai chân mềm nhũn, ngã sõng soài.

“Ta sớm đã để mắt đến tên tiểu tặc nhà ngươi rồi! Áo quần rách rưới, dáng vẻ gian gian trộm trộm, vừa nhìn đã biết là giống tặc tử!”

Tiểu nhị mắng chửi, tay chân thì không ngừng giáng xuống.

Có kẻ đá thẳng vào bụng ta, ngọn lửa trong đó bùng lên tới cổ họng, ta nhịn không nổi muốn nôn, nhưng há miệng ra, đến chút nước chua cũng không ói được.

May mà ta quen bị đánh, biết cách để mình bớt đau hơn chút.

Cứ cuộn người lại, ôm đầu, nhắm mắt, giả vờ như thân xác này không phải của mình, bọn họ rồi cũng có lúc mệt tay, rồi cũng sẽ dừng lại. Giống như mưa, dẫu có to đến đâu, cũng phải có lúc tạnh.

Cơn mưa này tạnh nhanh bất ngờ, bởi vì có người xuất hiện.

“Sao các người lại đánh nàng ấy?” Một giọng nói mềm nhẹ vang lên, như tiếng dê non kêu.

Vậy mà mấy kẻ đang ra tay lại lập tức dừng lại.

“Tiểu nương tử… là… là con tiểu tặc này trộm đồ…”

“Trộm gì?”

“Hai… hai lượng phòng phong…”

“Trộm đồ là không đúng, nhưng các người có thể từ từ nói mà…” Nàng ta dù nổi giận cũng chẳng có chút khí thế nào, như đang khuyên giải, “Chẳng lẽ chỉ vì hai lượng phòng phong mà đánh chết người ta sao?”

Ta mở mắt ra, đập vào mắt đầu tiên là một đôi giày thêu lụa tinh xảo, chỉ thêu bằng kim tuyến, còn đính cả các loại hạt châu đủ màu sắc.

Khi ấy ta còn chưa biết đôi giày đó đáng giá bao nhiêu, chỉ biết ít ra cũng có thể đổi được hai đấu gạo tẻ.

Loại gạo tẻ trắng thơm mà ta chưa từng được ăn, hai đấu gạo… lại bị một đứa ngốc xỏ vào chân, giẫm lên đất như không.

Ta òa khóc.

Người đó ngồi xổm xuống, đưa mặt lại gần: “Đau lắm à?”

Ta khóc không phải vì đau, so với những trận đòn trước đây, vết thương này chẳng đáng là gì.

Ta khóc vì đôi giày kẻ ngốc ấy đi, vì gạo mà ta không ăn nổi, vì ngọn lửa sắp thiêu thủng bụng ta.

Ngọn lửa ấy bốc lên, cuồn cuộn dâng tới đỉnh đầu.

Đầu ta tối sầm lại, không biết thế nào mà chộp lấy vật gì đó dưới đất, dùng hết sức ném thẳng vào đứa ngốc kia.

Vật ấy vừa rời tay, ta như người ngã xuống sông mùa đông, lập tức choàng tỉnh.

Nhưng không còn kịp nữa, thứ đó đã nện trúng mặt nàng, rồi “keng” một tiếng rơi xuống đất, lăn đến cạnh ta.

Là một quả cân đồng, không lớn nhưng nặng, khi nãy lúc bọn họ bắt ta có đổ mấy cái bàn, nó rơi ra từ đó.

Sau này nghĩ lại, ta thấy hẳn đây là ý trời, ông trời định để ta trở thành kiếp nạn của kẻ ngốc ấy, không thì sao lại khéo đến mức một tay chộp trúng đúng thứ đó?

Mặt nàng bắt đầu rỉ máu.

Ta thấy máu chảy từ cằm nàng xuống, cả người ta như bị đông cứng thành băng.

Lần này thì chết chắc rồi.

Ta nằm sõng soài trên đất như cá chết.

Cả phòng người đều ùa tới chỗ nàng, người đỡ ngồi, người che vết thương, người hô đi gọi đại phu… hỗn loạn cả lên.

Ta muốn nhân lúc hỗn loạn mà trốn đi, nhưng xương cốt toàn thân đều đau nhức, tay chân chẳng còn chút sức lực nào.

“Không chừng sẽ để lại sẹo…”

“Mặt mà hỏng thì sao giờ, còn chưa định hôn sự mà…”

“Nếu chủ nhân biết chuyện, thể nào cũng lột da chúng ta…”

Đầu ta như bị chôn dưới nước, bên tai ong ong, chẳng nghe rõ điều gì.

Ta lại thấy đôi giày thêu của nàng, bèn cắn răng, thôi thì chết cũng được, sống kiếp ngày ngày đói khát, ăn đòn, chẳng bằng chết quách cho rồi, biết đâu còn được đầu thai lại…

Nha hoàn luống cuống đỡ nàng vào nội thất.

Giờ thì đến lượt ta, bọn họ vừa nãy bận chăm tiểu chủ nhân, giờ rảnh tay thể nào cũng xử ta.

Chúng sẽ đánh chết ta, hay trói ta giao quan phủ?

Dù sao cũng là chết, nếu không bị đánh chết tại đây, thì cũng bị cữu cữu ta đánh chết khi biết chuyện.

Không ngờ, đứa ngốc ấy lại dừng bước: “Các người đừng làm khó tiểu cô nương ấy nữa, chỉ là đứa nhỏ, bị dọa sợ, không phải cố ý đâu.”

Ta không còn nhỏ, cuối năm này là tròn mười hai rồi, chỉ là ăn không đủ, không lớn được, trông bé hơn cả đứa con tám tuổi của cữu mẫu.

Ta dĩ nhiên là cố ý, nhưng chẳng dại gì mà nói ra.

“Chuyện hôm nay, tuyệt đối đừng để phụ thân ta biết.” Nàng lại nói, “Nếu phụ thân hỏi, thì cứ nói là ta tự ngã, đập mặt vào cạnh bàn.”

Giọng nàng khàn khàn, rõ ràng là đã khóc.

Nước mắt của đứa ngốc kia trông thế nào nhỉ? Chắc cũng trong veo như nước tịnh bình của Quan Âm Bồ Tát.

Quả nhiên không ai làm khó ta nữa, nhưng cũng chẳng ai dám thả ta đi, lỡ chuyện bại lộ, còn có thể lấy ta ra xử lý.

Có một người hầu xách ta lên, nhốt vào nhà kho phía sau.

Ta vừa đói vừa mệt, thế mà lại ngủ thiếp đi.

Không biết ngủ bao lâu, có người đá ta tỉnh.

Ta bị đưa đến một gian phòng sạch sẽ gọn gàng, đứa ngốc kia mắt vẫn còn sưng đỏ, mặt băng băng gạc, vậy mà vẫn nhoẻn miệng cười với ta.

Mãi tới lúc đó, ta mới nhìn rõ mặt nàng.

Không tính là xinh đẹp, cũng chẳng xấu xí, một gương mặt rất đỗi bình thường. Gương mặt tròn vo, không chút góc cạnh, đâu đâu cũng mềm nhũn, là dáng vẻ điển hình của kẻ ngốc. Ngoài làn da trắng nõn ra, chỉ có đôi mắt là rõ ràng đen trắng, lúc cười cong cong như trăng lưỡi liềm.

So với mặt trời, ta không ghét mặt trăng đến thế, ít nhất trăng không đến mức chuyên làm khổ người nghèo.

“Ngươi bao nhiêu tuổi rồi?” Nàng hỏi ta.

Ta nghĩ nghĩ, rồi đáp: “Tám tuổi.”

Ta sợ nếu nàng biết ta mười hai tuổi thật, sẽ lập tức xử phạt ta.

“Sao… lại không xin một tiếng mà lấy?” Nàng lại hỏi, hai má ửng hồng.

Miệng nàng, hẳn cũng được rửa bằng nước tịnh bình, đến chữ “trộm” cũng chẳng thốt nổi, cứ như người làm chuyện xấu là nàng vậy.

Ta cúi đầu, ra vẻ đáng thương.

Quả nhiên nàng mắc lừa, dè dặt hỏi: “Là vì trong nhà có người bệnh, nóng ruột sao?”

Ta gật đầu: “A nương bệnh rồi, không dậy nổi khỏi giường…”

Tất nhiên đó là lời dối, a nương ta đã chết từ lâu, ta còn chẳng nhớ nổi mặt mũi bà ra sao.

“Biết là bệnh gì không?”

“Không có tiền mời đại phu, cũng không có tiền bốc thuốc.”

Nàng lộ vẻ áy náy, như thể a nương ta lâm bệnh là lỗi của nàng vậy.

Nàng kéo tay ta lên, đặt thứ gì đó vào lòng bàn tay ta.

Nặng trịch, là một thỏi bạc, đúc hình hoa sen nhỏ nhắn.

Đó là lần đầu tiên ta chạm tay vào bạc thật, được nàng ủ ấm trong lòng bàn tay, mang theo chút hơi ấm còn sót lại.

Sau này qua tay ta không biết bao nhiêu là bạc, nhưng chưa bao giờ có một thỏi nào ấm cả.

Nàng nhẹ nhàng khép các ngón tay ta lại: “Cầm lấy, mời đại phu cho a nương ngươi, bốc thuốc, cất kỹ vào, ra ngoài đừng để ai nhìn thấy.”

Thì ra kẻ ngốc này cũng biết đạo lý “của quý không để lộ”.

“Hồi nãy bị đánh, có đau không?”

Ta vô thức lắc đầu, nhưng rồi sực nhớ mình phải tỏ vẻ đáng thương, bèn vội gật đầu.

“Khóe miệng ngươi chảy máu rồi.”

Vừa nãy nói chuyện làm vết thương rách ra, ta giơ tay định lấy tay áo lau, nàng lập tức giữ tay ta lại: “Dùng khăn tay.”

Chiếc khăn lụa mịn nàng đưa qua, một góc cũng thêu hoa sen, xem ra nàng thực sự thích loài hoa đó.

Ta cầm lấy, không nỡ dùng lau máu, trong bụng âm thầm cân nhắc xem chiếc khăn này có thể đổi được bao nhiêu cân kê.

Kẻ ngốc tất nhiên chẳng nghĩ được mấy chuyện đó: “Sao vậy?”

Nàng lấy khăn lại, nhẹ nhàng đặt lên khóe miệng ta, động tác khẽ đến mức tựa như có lông vũ non của chim con khẽ lướt qua da mặt.

Không hiểu vì sao, sống mũi ta chợt cay cay, nước mắt lặng lẽ rơi xuống.

Kẻ ngốc kia hoảng hốt rụt tay lại, giọng có vẻ sợ hãi: “Ta… ta làm ngươi đau sao?”

Ta đáp rằng ta chỉ lo cho a nương thôi.

Đến mức này thì chẳng cần giả bộ nữa.

Vừa nói dứt, bụng ta liền “ọc” một tiếng vang dội.

“Đói rồi phải không?” Nàng hỏi: “Ăn chút điểm tâm rồi hẵng đi.”

Tỳ nữ rất nhanh mang ra mấy đĩa bánh trái.

Ta chưa từng thấy những thứ đó bao giờ, nằm mơ cũng không ngờ đồ ăn lại có thể làm tinh xảo đến thế.

“Không hợp khẩu vị sao? Muốn ăn chút gì mặn không?”

Ta cười, vết thương vừa cầm máu xong lại bị kéo rách lần nữa.

Ta cái gì cũng ăn, chỉ cần có thể làm dịu ngọn lửa trong bụng một chút. Cháo loãng trộn cát, đồ ăn thừa ôi thiu, vỏ cây, rễ cỏ…

Từng có kẻ đổ cơm thừa vào máng chó, rồi ngồi nhìn ta tranh ăn với chó để cười hả hê mà ta vẫn nuốt được.

Từng có người cho ta một cái bánh bao, bắt ta cởi quần để hắn sờ soạng.

Ta cái gì cũng từng trải qua, chỉ chưa từng gặp kẻ như nàng, dùng đôi mắt như trăng sáng mà nhìn ta, hỏi những câu ngốc nghếch như vậy, cứ như thật sự xem ta là người.

Lượm được một con chó hoang, chắc hẳn nàng lấy làm đắc ý lắm?

Thật tưởng mình là Bồ Tát chắc?

Ta bỗng thấy buồn nôn, đến cả mấy cái bánh hoa mỹ kia cũng chẳng còn hấp dẫn như trước.

Nhưng ta vẫn chộp lấy một cái nhét vào miệng, rồi cái thứ hai, cái thứ ba…

Ta cứ thế nhét không ngừng, cổ họng phát ra tiếng “hực hực” như con chó hoang đang giành ăn.

Ta thấy vẻ kinh ngạc trên mặt nàng, cái dáng điệu giành giật đó chắc chắn dọa nàng sợ rồi.

Nàng thấy ghê tởm chăng? Ta lại có phần hả hê.

Chỉ là…

Nàng ngây người một lúc, rồi đứng dậy vỗ nhẹ vào lưng ta: “Ăn chậm chút, coi chừng nghẹn. Phía sau vẫn còn đấy, ăn xong sẽ lấy thêm cho ngươi.”

Nói trúng rồi, ta quả nhiên bị nghẹn, suốt đường về cứ nấc cục mãi không ngừng.

Sáng hôm sau, thỏi bạc ta giấu dưới chiếu bị cữu mẫu tìm thấy, bà ta hỏi ta lấy ở đâu, ta đòi bà trả lại.

Bà chửi ta là đồ tặc tử, ta chửi bà là con mụ đĩ già, bà nói ta là sao chổi chuyên rước họa về nhà, ta không cãi nổi, chỉ biết gào lên đòi lại bạc.

Tối đến, cữu cữu ta về nhà đánh ta một trận, đánh gãy cả gậy, còn xách luôn rìu ra, dọa sẽ chặt tay ta.

“Chặt thì chặt đi.” Lúc lưỡi rìu giáng xuống, ta nghĩ, dù sao cũng là trộm, nhưng thà là trộm còn hơn nhận bố thí của kẻ ngốc kia.

Rìu không chém vào tay ta, mà bổ xuống khúc gỗ bên cạnh.

Cữu cữu bắt ta quỳ xuống thề: “Nếu còn dám trộm nữa, nhất định sẽ chặt một tay mày!”

Nhưng bọn họ không trả bạc lại cho ta.

Lần gặp lại kẻ ngốc ấy đã là ba tháng sau.

Ta không muốn gặp, chỉ đứng ngoài cửa nhìn một cái, xem dưới cằm nàng có thật để lại sẹo như đại phu nói hay không.

Ai ngờ người thì ngốc mà mắt lại tinh, đảo cái đã thấy ta, mắt tròn như trăng sáng chớp chớp gọi ta lại.

“Bệnh của a nương ngươi khỏi chưa?”

“Chết rồi.”

Nàng ta há miệng ra, vẻ mặt ngốc nghếch.

Ta bảo là đùa đấy, a nương ta xem đại phu, uống thuốc rồi, khỏi rồi.

Nàng sa sầm mặt, vành mắt đỏ hoe: “Không được lấy chuyện này ra mà đùa. Có người muốn gặp lại a nương mình, đến mặt còn chẳng thấy được nữa.”

Lúc đó ta mới nhớ, a nương nàng cũng mất sớm.

Nhưng nó còn a cha, còn có đống bạc tiêu không hết, nếu có từng ấy bạc rồi, có cha nương hay không thì đã sao?

Khóc cái gì chứ, thật vô dụng.

“Ngươi có muốn kiếm chút bạc không?” Kẻ ngốc đột nhiên hỏi ta.

Ta chưa hiểu.

“Dạo này bận, hiệu thuốc thiếu người phụ giúp dọn hàng. Nếu ngươi rảnh, thì ở lại giúp một tay, còn có thể kiếm ít bạc.”

Không hiểu sao ta lại mơ mơ hồ hồ gật đầu, chắc là vì thấy dưới cằm nó thật sự để lại sẹo.

Số bạc kiếm được chẳng bao nhiêu, đều bị cữu mẫu vét sạch, nhưng ít ra ta cũng được ăn no.

Đứa ngốc ấy hai ngày lại đến hiệu thuốc một lần, lúc rảnh rỗi thì dạy ta viết chữ, nhận biết dược liệu. Chưa đến một tháng, ta đã nhớ hết mấy trăm loại thuốc trong tiệm.

Nàng rất kinh ngạc, bảo nàng mất nửa năm mới nhớ hết.

Vì ngươi ngốc mà, ta nghĩ thế, nhưng không nói ra.

Sau đó nàng dạy ta dược tính, cái nào tương sinh, cái nào tương khắc, phương thuốc này phương thuốc nọ. Học được nửa năm, nàng nói nếu cứ tiếp tục như vậy, chẳng mấy mà dạy xong hết, rồi hỏi ta có muốn đến y quán quen biết học việc không, hiệu thuốc vẫn trả tiền như cũ, còn được thêm một phần bạc.

Cũng được thôi.

Học cho giỏi mấy năm, có thể thành nữ y, chuyên khám cho nữ tử, nếu ta học xong, nàng có thể cho ta vay bạc mở y quán.

Ta không mấy quan tâm đến chuyện kiếm thêm một phần tiền, dù gì bao nhiêu tiền cũng bị lột sạch, bọn họ nuôi ta bấy nhiêu năm, nợ thì ta cũng phải trả.

Ta cũng chẳng hứng thú gì với cái gọi là y quán, ta không thích thuốc, càng không thích khám bệnh cho người khác, ta chỉ mong tất cả chết hết cho rồi.

Nhưng ta vẫn gật đầu, vì nhìn thấy ánh mắt nàng sáng rỡ như sao, không nỡ dội gáo nước lạnh vào.

Y quán ở gần, cách hiệu thuốc ba cửa tiệm.

Trong đám học việc, ta là đứa được sư phụ yêu quý nhất, không chỉ vì trí nhớ tốt, học nhanh, mà còn vì ta siêng năng, mỗi lần đến hiệu thuốc chạy việc lấy thuốc đều là ta, một ngày chạy mười mấy lần cũng không kêu mệt.

Sư phụ nói cứ học thế này, ba năm năm năm là có thể xuất sư.

Kẻ ngốc nghe xong cũng mừng, coi như là chuyện tốt đi.

Ở y quán thêm một năm, ta lại được ăn no, lửa trong bụng cũng đã lâu không bùng cháy, lâu đến mức ta tưởng nó đã biến mất rồi.

Về sau ta hay nghĩ, lúc đó hà tất phải đi hái cái hoa sen quái quỷ ấy?

Vận đen, chắc là bắt đầu từ khi ấy.

Kẻ ngốc sắp sinh thần, nàng chẳng thiếu thứ gì, điều tiếc nuối duy nhất là chưa từng thấy đóa sen hai màu độc nhất vô nhị trong thiên hạ, vì hoa ấy mọc trong vườn phủ Thứ sử, mà Tô gia chỉ có tiền chứ không có thế, tất nhiên không đủ tư cách làm khách quý trong phủ.

Ta quyết định đi trộm.

Lần trước trộm thuốc thất bại vì đói đến run chân, giờ ta đã ăn no hơn một năm, trèo tường hái một bông hoa có là gì.

Chỉ không ngờ, nhà đại quan, ngay cả hoa cũng quý hơn người.

Ta hái được bông đẹp nhất trong hồ, nhưng vẫn kinh động gia nhân trông vườn, lúc trèo tường bỏ chạy không may ngã một cái, bị đuổi kịp, đánh cho một trận ra trò.

Người phủ Thứ sử đánh đấm đâu phải đám tiểu nhị hiệu thuốc Tô gia.

May mà trước lúc bị đánh, ta đã ném hoa vào bụi cỏ, chúng không tìm thấy gì trên người ta, cũng sợ đánh chết người, đánh gãy hai cái xương sườn là thôi.

Người nghèo mạng rẻ, bị đánh một trận đổi lấy một đóa sen hai màu quý giá cũng xem như đáng.

Ta lục lại bụi cỏ tìm hoa, nhét vào trong áo.

Cả người đầy thương tích không thể về y quán, cũng không thể để đứa ngốc kia thấy, ta như kẻ trộm lén lút lần đến sau hiệu thuốc, định nhét đóa sen qua cửa sổ hậu, nhưng khi ta lấy hoa từ trong áo ra, cuống hoa đã mềm oặt, cánh hoa cũng héo rũ, mềm nhũn, xấu đến mức không muốn nhìn lần hai.

Ta ném nó đi.

Dọc đường ta cứ nghĩ mãi về đóa hoa ấy, nếu cẩn thận hơn chút, không ngã, hoặc bọc ướt cuống hoa lại, thì liệu nó có héo không? Ta càng nghĩ càng hối, lại sợ cả người thương tích bị người khác phát hiện.

Nếu cữu cữu biết ta trộm hoa trong phủ Thứ sử, chắc chắn sẽ chặt tay ta.

Ta vừa đi vừa lo, đến cổng nhà mới nghe tiếng cữu mẫu khóc gào.

Cữu cữu không thể chặt tay ta được nữa, vì đã chết.

Lúc sửa tường thành, ông lỡ tay làm rơi một tảng đá xuống, đúng lúc đập chết một viên quan giám công. Gây họa lớn, không gánh nổi, ông đã nhảy từ tường thành xuống để đền mạng.

Nhưng mạng người thì có giống nhau không? Một mạng của ông ta, làm sao đổi được một mạng quan?

Người bị hại có tiền có thế, tất nhiên không dễ bỏ qua, tất nhiên tai họa sẽ giáng xuống con cháu.

May mà có người bày kế, tìm đường đi, nghe nói Thứ sử Sĩ Mã thích nữ tử độ mười tuổi.

Nhà có sẵn hai đứa, biểu muội mười một, ta mười ba.

Cữu mẫu dắt biểu muội, cười nịnh nọt, nói hết lời hay: “Con lanh lợi thông minh, biểu muội con thì chậm chạp vụng về. Con dáng người mảnh mai nhỏ nhắn, trông còn nhỏ hơn cả biểu muội con. Con làm thiếp cho Sĩ Mã nhất định có tương lai. Biểu muội con mà đi thì chỉ có đường chết. Chúng ta dù có lỗi gì, cũng nuôi lớn con bao năm…”

Cữu mẫu nói khô cả miệng, ta chỉ nghĩ đến đóa sen hai màu héo rũ kia.

Cữu mẫu không còn lời hay để nói nữa, kéo biểu muội và biểu đệ ra, “phịch” một tiếng quỳ xuống, “bốp bốp” dập đầu với ta, trán bật máu: “Biểu muội con không thể đi! Nếu bắt nó đi là muốn giết ta! Ta xin con, thay nó đi được không?”

Ta nghe mà thấy phiền, chỉ muốn đuổi họ đi: “Được, ta đi.”

***

Chương tiếp theo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *