Chương 5: Tòa nhà ăn thịt người
***
Cánh cửa mở ra, một lão gác cổng thò nửa người ra ngoài, nhìn họ bằng ánh mắt nghi ngờ, lầm bầm như nói với chính mình: “Lại là bọn trừ tà nữa à?”
Chưa kịp đợi họ trả lời, lão đã phẩy tay nói: “Chờ ở phòng gác đi.” Dứt lời thì lắc lư đôi vai, dáng vẻ lười biếng, chậm rãi bước vào phía sau bức tường chắn.
Chẳng mấy chốc, một người trung niên có vẻ là quản sự bước ra. Kẻ đó mặc áo lụa xanh, dáng người lùn tịt, mặt tròn bóng nhẫy, mỗi khi cười thì hai bên má lại nổi lên từng lớp thịt, rõ ràng là cười mà chẳng mấy thân thiện, khiến Hải Triều cảm thấy khó ưa.
Ông ta đảo mắt nhìn qua một lượt, ánh nhìn dừng lại trên người Lương Dạ, lộ ra vẻ thăm dò: “Mấy vị tiên gia, thiền sư đây chắc là đến để trừ tà cầu phúc cho phu nhân?”
Lương Dạ đáp: “Bọn ta phụng lệnh sư phụ đến bắt yêu.”
Hắn vốn có dung mạo tuấn tú, khi không cười thì càng toát lên vẻ lạnh lùng, lúc này hơi ngẩng cằm, thần sắc nghiêm nghị, quả có vài phần phong thái cao nhân thoát tục.
Cũng ra dáng lắm đấy, Hải Triều thầm nghĩ.
Thái độ của quản sự lập tức cung kính hơn hẳn: “Chẳng hay mấy vị tiên gia là từ môn phái nào?”
Lương Dạ: “Thanh Vân Quán.”
Hải Triều biết hắn thuận miệng bịa đại, Thanh Vân Quán là đạo quán lớn nhất thành Liêm Châu, năm xưa nàng từng đến học phủ đưa áo cho Lương Dạ, cả hai còn cùng nhau đến đó ngắm hoa ngọc.
Vậy mà quản sự lại làm ra vẻ nghe danh đã lâu: “Thì ra là đạo trưởng của Thanh Vân Quán, thất kính thất kính.”
Ông ta lại nhìn sang tên hòa thượng: “Vị thiền sư này thì…”
Sa môn cười khẽ đầy ranh mãnh: “Bần tăng với mấy vị đây vốn không quen biết, chỉ là tình cờ gặp ngoài phủ quý thôi.”
Quản sự bèn gọi một tiểu đồng tới: “Dẫn vị thiền sư này đến khách viện nghỉ ngơi dùng bữa.”
Rồi quay sang Lương Dạ và những người còn lại, khom người làm động tác mời: “Các vị tiên gia, mời đi lối này.”
Vừa dẫn đường, ông ta vừa nói: “Lão nô họ Lý, là tổng quản của phủ này. Nếu các vị đạo trưởng cần gì, cứ việc sai bảo.”
Họ vòng qua bức tường chắn trắng tinh, trước mắt hiện ra một sân viện với rừng cây tĩnh mịch và hành lang sâu hun hút.
Trong sân trồng đầy du, hòe, tùng, bách; có cây phải hai người ôm mới xuể, tán lá rậm rạp che kín ánh sáng. Không biết có phải vì cây cối quá rậm rạp không mà bầu không khí trong viện lạnh hơn bên ngoài rất nhiều.
Dù thân thể cường tráng như Hải Triều cũng không nhịn được mà rùng mình.
Trình Hàn Lân xoa xoa cánh tay: “Nhìn mấy cây cổ thụ to thế kia, chắc phủ này cũng lâu đời lắm rồi nhỉ?”
“Phải rồi, ít cũng cả trăm năm.” Quản sự nói với vẻ không giấu nổi sự tự hào, “Toàn bộ Vu Thành cũng hiếm nơi sánh bằng.”
“Chủ nhân các người chắc làm quan to lắm?” Hải Triều tò mò nhìn quanh.
Phủ đệ này còn to và khí phái hơn cả nha môn huyện.
“Tiên cô nói đùa rồi, lang quân nhà ta chỉ là dân thường, buôn bán kiếm sống thôi.”
“Ồ, chắc làm ăn lớn lắm nhỉ.” Hải Triều nói.
Quản sự mỉm cười, xem như ngầm thừa nhận.
Trong lúc trò chuyện, họ đã đi qua tiền viện, đến chính viện.
Chính sảnh gồm năm gian, trước hiên là một sân nguyệt bằng cát trắng, hơn chục gốc tùng bách xanh ngắt mọc trên đó. Nhà không quá rộng, nhưng kèo cột trạm trổ hoa mỹ, quy củ chỉnh tề.
Trong không khí phảng phất mùi sơn mới, rõ là vừa được sửa sang gần đây.
Trời đã gần tối, hai tiểu đồng mặc áo xanh đang đứng lười biếng dưới hành lang châm đèn.
Quản sự quát: “Châm cái đèn thôi mà lề mề cả buổi, không thấy có khách đến à!”
Rồi quay lại nói: “Bọn tiểu đồng này mới vào phủ chưa lâu, còn non nớt, khiến các vị tiên gia chê cười rồi.”
Vừa nói, ông ta vừa đưa mọi người đến phòng phía đông, dặn tiểu đồng thắp đèn mời ngồi.
Vài người an tọa, chẳng bao lâu sau đã có tiểu đồng dâng trà bánh lên.
Khói trà lượn lờ, bánh trái tỏa ra mùi hương ngọt ngào hấp dẫn vô cùng.
Mọi người cả ngày đêm chưa được hạt cơm giọt nước nào, sớm đã đói meo, đừng nói Hải Triều và Trình Hàn Lân, đến cả Lục nương tử cũng đỏ mặt cắn môi.
Nhưng ba người nhìn nhau, không ai dám động đũa.
Dù sao đây cũng là địa bàn của yêu quái, là một thế giới hoàn toàn xa lạ, những thứ này có ăn được không thì chẳng ai dám chắc.
Lương Dạ lại thản nhiên bưng bát trà lên uống một ngụm.
Hải Triều nghĩ bụng, ở trong bí cảnh này suốt bảy ngày bảy đêm, chẳng lẽ lại không ăn không uống? Thế là cũng bưng trà lên uống theo.
Trà rất thơm, so với thứ trà thô nàng hay uống hàng ngày thì ngon hơn hẳn.
Nàng uống cạn trong vài ngụm, rồi cầm một miếng bánh ngọt không rõ tên lên cắn thử, lập tức cảm thấy hương vị mềm mại ngọt ngào, như tan ngay trên đầu lưỡi.
Rơi vào nơi này, thật ra cũng không hẳn là chuyện xấu.
Hải Triều vô thức ngẩng đầu lên, bắt gặp ánh mắt của Lương Dạ đang nhìn nàng, trong đó thấp thoáng ẩn hiện nét cười.
Hải Triều tưởng mình dính vụn bánh bên miệng, bèn đưa tay sờ sờ quanh mép và cằm, nhưng chẳng thấy gì.
Là cười nàng tham ăn, chưa từng thấy đồ ngon sao?
Nàng trừng mắt nhìn hắn một cái, rồi vơ lấy một miếng bánh gạo nếp nhân đậu đỏ nhét vào miệng, phồng má lên như muốn thị uy.
Lương Dạ hạ mắt xuống, nhưng Hải Triều đã mất hết hứng, ngay cả bánh trong miệng cũng chẳng còn thấy ngon.
Nàng uể oải đặt đũa tre xuống, những người khác cũng đã buông đũa.
Quản sự cho tiểu đồng dọn bát đĩa đi, nhưng lại khoanh tay đứng một bên, nhìn Lương Dạ với vẻ muốn nói lại thôi.
Thế nhưng Lương Dạ cố tình không mở miệng, chỉ thong thả nhấp trà, dáng vẻ trầm tĩnh ung dung.
Cuối cùng quản sự cũng không nhịn nổi nữa: “Chẳng hay các vị tiên gia tu luyện đạo pháp gì? Trước giờ từng gặp phải những loại yêu quái nào?”
Trình Hàn Lân lập tức bắt chuyện: “Ôi nhiều lắm, kể không xuể! Nói ra thì dài dòng, như mấy hôm trước chúng ta ở phía nam, vừa chém xong một con chuột tinh to bằng cỗ xe, mắt to như bánh xe ngựa…”
Lương Dạ ngắt lời: “Nói việc chính đi. Nơi này yêu khí nồng đậm, kéo dài thêm e rằng sẽ sinh tai biến.”
Hắn nhấp một ngụm trà, chậm rãi nói: “Đến lúc đó, e rằng hậu quả khó mà lường được.”
Quản sự rùng mình một cái: “Tiên sư nhìn ra được là thứ gì đang tác oai tác quái ư?”
Lương Dạ đáp: “Ngươi có điều giấu giếm, bần đạo cũng chẳng thể tiết lộ gì.”
Quản sự nuốt nước bọt, lúc này mới đem chuyện kể đầu đuôi.
Chủ nhân phủ này họ Tô, vốn là phú thương đất Thục. Một năm trước chuyển đến Vu Thành cùng phu nhân, ban đầu chỉ thuê nhà ở phía đông thành, nửa năm trước thì mua lại tòa cổ trạch này, mất ba tháng tu sửa rồi chọn ngày lành dọn vào.
Lúc mới chuyển đến, gia súc đầy đàn, việc làm ăn của lang quân cũng thuận buồm xuôi gió, ai ngờ chưa đầy một tháng, trong phủ bắt đầu xuất hiện chuyện lạ.
Ban đầu là chuồng gà vịt bị mất trộm, thỉnh thoảng lại thiếu một con. Qua vài hôm, có khi trong góc viện lại xuất hiện một đống xương trắng sạch sẽ.
Ban đầu cứ tưởng bị chồn hoặc chuột tha đi, hoặc là đám người hầu trộm cắp, nên bèn tăng người canh giữ, nhưng rốt cuộc không bắt được kẻ nào, mà gà vịt vẫn cứ cách ngày lại mất vài con.
Song, nhà họ Tô giàu có bề thế, cũng không mấy để tâm.
Nhưng sau đó, đồ mất càng lúc càng lớn, đến cả heo và bò cũng biến mất không dấu vết trong đêm.
“Cũng chỉ còn lại một đống xương trắng?” Trình Hàn Lân hỏi.
Quản sự gật đầu.
Hải Triều chống cằm, nhíu mày suy nghĩ: “Ừm…”
Quản sự hỏi: “Tiểu tiên cô có cao kiến gì chăng?”
Hải Triều không đề phòng ông ta đột nhiên hỏi đến mình, liền “à” lên một tiếng, bắt chước vẻ thâm sâu khó đoán của Lương Dạ: “Cao kiến của bản tiên cô là… con yêu quái đó cực kỳ thích ăn thịt.”
Lục Uyển Anh “phụt” cười thành tiếng, sau đó xấu hổ đến đỏ bừng cả mặt.
Quản sự mặt mũi ngượng ngùng: “Tiên cô nói đùa rồi.”
Lương Dạ khẽ ho khan một tiếng: “Xảy ra chuyện như vậy, có từng mời hòa thượng, đạo sĩ hay phương sĩ nào đến xem chưa?”
Mặt quản sự lộ vẻ lúng túng: “Chủ nhân mới dọn đến đây, nơi đất khách quê người, lang quân lại làm ăn buôn bán, khách khứa ra vào, sợ rằng truyền ra tin đồn sẽ ảnh hưởng đến sinh ý, nên không muốn làm lớn chuyện. Nhưng lang quân có sai người đến đạo quán hỏi riêng, trụ trì nói có lẽ là nhập trạch vào giờ xấu, phạm xung, nên vẽ một lá bùa trấn trạch, dặn đem về dán lên xà nhà ở chính sảnh.”
Không cần hỏi cũng biết, lá bùa đó tác dụng không lớn.
Nếu có hiệu quả thật, thì họ đâu có ở đây lúc này.
“Là đạo quán nào?” Lương Dạ hỏi.
Quản sự đáp: “Động Huyền Quán.”
“Cũng ở trong thành này à?”
“Ở Kiến Nghiệp.” Quản sự nói.
Lương Dạ gật đầu như đang suy nghĩ gì đó, ra hiệu cho ông ta kể tiếp.
“Từ sau khi dán bùa, đúng là yên ổn được một thời gian, trong phủ không mất thêm gia súc nữa.”
Mọi người ai nấy thở phào nhẹ nhõm, nhưng một hôm, lá bùa đột nhiên tự rơi khỏi xà nhà. Dán lại, thì lát sau lại rơi. Không tin là điềm gở, họ lấy keo da hươu dán thật chặt, lần này không rơi nữa, nhưng lá bùa lại tự cháy.
Quản sự hạ thấp giọng, như thể sợ yêu quái nghe thấy: “Khi đó có mấy người hầu đều kể, lúc lá bùa bốc cháy, họ nghe trên xà nhà vang lên tiếng cười…”
Từ đó trở đi, quái sự trong phủ ngày càng không thể khống chế, thậm chí ngày càng nghiêm trọng.
Nửa đêm có người hầu đi ngang căn phòng trống, nghe bên trong có tiếng bước chân và trò chuyện.
Một lão mã phu đã ngoài năm mươi, đang ngủ ngon trong phòng, tỉnh dậy lại thấy mình nằm trong… nhà xí.
“Lão mã phu đó vốn cũng hơi ngờ nghệch…” Quản sự kể, “Đám gia nhân trong phủ thường lấy chuyện đó ra trêu, nói là ông ta uống say, tự mình bò vào nhà xí ngủ. Lão tức quá, bèn đánh cược với mọi người, nói sẽ bắt cho bằng được con yêu quái ấy, rồi mang chăn đệm đến ngủ ở căn phòng trống âm u nhất…”
Quản sự nuốt nước bọt, dường như chỉ nhớ lại thôi cũng đủ khiến ông ta sợ đến rợn người.
Hải Triều đang nghe say sưa, thấy ông ta ấp úng thì nhướng mày: “Rồi sao? Chết rồi à?”
“Vẫn còn sống.” Quản sự đáp, “Nhưng hóa điên rồi.”
“Ông ta thấy gì?” Hải Triều hỏi.
Quản sự lắc đầu: “Không ai biết. Từ sau khi phát điên, lão mã phu chỉ còn nói được một chữ.”
“Chữ gì?”
“‘Mặt’.”
***