Chương 3: Gặp lại
***
Hải Triều chưa từng thấy Lương Dạ thê thảm đến thế bao giờ. Hắn chỉ mặc một lớp trung y, toàn thân ướt sũng, vạt áo dính đầy bùn đất, còn lấm tấm cả vết máu, dáng đi rất lạ, hình như chân tay bị thương.
Ba năm không gặp, hắn cao hơn trước nhiều, lại gầy hơn, vẻ non nớt thuở thiếu niên đã lui, hiện rõ những đường nét góc cạnh, càng thêm thanh tú thần tuấn.
Cho dù chật vật như vậy, dính đầy máu bùn, lại chẳng hề khiến người ta thấy dơ bẩn. Từ nhỏ hắn đã thế, dù có lăn lộn trong bùn với đám trẻ trong làng, lúc nào trông cũng sạch sẽ hơn người ba phần.
Dù đi tập tễnh, dáng lưng vẫn thẳng tắp, như thể trời sinh có thêm một đốt xương sống so với người thường.
Áo mặc đã ngắn, vai cũng đã hẹp, trong đầu Hải Triều bỗng thoáng qua một ý nghĩ như vậy đầu tiên.
Ngay sau đó nàng chợt nhớ, mấy bộ áo ấy đã bị đốt thành tro, còn người trước mặt cũng chẳng còn liên can gì đến nàng nữa.
Máu trong người nàng chợt lạnh đi.
Nàng để ý thấy trên đai lưng hắn có đeo một túi thơm bằng bạc mạ vàng, chạm khắc tinh xảo, khéo léo vô cùng. Hải Triều từng thấy phu nhân huyện lệnh đeo túi thơm tương tự, nhưng cũng không tinh tế bằng chiếc này.
Hắn quý trọng đeo trên thắt lưng trung y thế kia, tám phần là tín vật của tiểu thư quyền quý nào đó.
Ánh mắt Lương Dạ rơi lên người nàng, trong đôi mắt mơ hồ bỗng bừng sáng: “Hải Triều.”
Giọng nói vẫn là sự thân thuộc xưa cũ, nhưng âm thanh không còn trong trẻo như ba năm trước nữa, trầm thấp hơn nhiều, còn có chút khàn khàn.
Trong mắt hắn lướt qua nét kinh ngạc, khẽ ho khan hai tiếng: “Đây là đâu? Sao chúng ta lại ở đây?”
Hải Triều không sao hiểu nổi, sau khi hắn gửi hưu thư, cớ sao còn có thể bình thản nói chuyện với nàng như chẳng có chuyện gì xảy ra.
Nàng quay mặt đi.
Nam tử áo xanh đã hoàn hồn, nhìn Lương Dạ rồi lại nhìn Hải Triều: “Xem ra hai vị quen nhau?”
Hải Triều đáp, giọng cứng đờ: “Ta không quen quý nhân đến từ Trường An.”
Lương Dạ ngỡ ngàng: “Ta đã từng tới Trường An bao giờ?”
Hải Triều cười nhạt: “Ngươi còn định giả vờ đến bao giờ?”
Lương Dạ ngơ ngác nhìn nàng một lúc, ánh mắt hoang mang như sương đặc không tan. Hắn dường như chợt nhận ra điều gì, cúi đầu nhìn tay trái của mình.
Hải Triều cũng nhìn theo. Bàn tay ấy đã lớn hơn lúc chia tay, gân xương rõ ràng, da tay trắng ngần ánh xanh, như được tạc từ ngọc thạch.
Ba năm này chắc không phải làm việc nặng nhọc gì, Hải Triều thầm nghĩ, da dẻ mới trắng đến thế.
Lương Dạ nhíu mày nhìn kỹ, rồi hạ tay xuống: “Giờ là năm nào, tháng nào?”
Hải Triều nhìn hắn đầy nghi ngờ, không rõ hắn đang giở trò gì.
Nam tử áo xanh đáp: “Năm Cảnh Hòa thứ mười một, tháng Ba. Công tử tưởng là năm nào?”
Lương Dạ khẽ gật đầu, nói lời cảm tạ, nhưng không trả lời.
Nam tử áo xanh lại hỏi: “Sắc mặt công tử nhợt nhạt, có chỗ nào không khỏe chăng?”
Lương Dạ đưa tay xoa xoa sau gáy, rồi nhìn lòng bàn tay.
Hải Triều theo ánh mắt hắn nhìn xuống, thấy trên tay hắn là một vết máu đỏ tươi rành rành.
Tim nàng giật thót: “Ngươi…”
Vừa đối mắt với Lương Dạ, nàng lập tức quay mặt đi.
Nam tử áo xanh lo lắng: “Công tử làm sao bị thương vậy?”
Lương Dạ buông tay xuống: “Không sao. Khi nãy vô ý trượt chân trong rừng, lăn từ sườn núi xuống.”
Nam tử áo xanh nói: “Chẳng trách công tử không nhớ được năm tháng hiện tại, có lẽ là bị đập đầu, nên tạm thời mất trí nhớ cũng nên.”
Hải Triều cũng từng nghe kể chuyện tương tự, Tam lang nhà Vương Nhị trong làng lúc chơi đùa bị mái chèo đập vào sau gáy, sau đó ngay cả tên mình cũng không nhớ nổi, phải mấy tháng sau mới nhớ lại.
Nàng nhìn Lương Dạ chằm chằm, bán tín bán nghi, ngờ rằng hắn đang diễn trò.
Nhưng rồi nàng lại lập tức dẹp bỏ ý nghĩ đó. Mẹ nàng từng nói, người ba tuổi định tính cả đời.
Lương Dạ vốn là kẻ ngạo mạn, nếu đã quyết ý từ hôn, chắc chắn chẳng thèm đóng kịch.
Nam tử áo xanh lại nói: “Chúng ta mải nói chuyện, mà công tử thì ướt sũng cả rồi, mau lại bên lửa hong ấm một chút.”
Lương Dạ đi tới bên Hải Triều, định ngồi xuống, Hải Triều liền “vụt” một tiếng đứng dậy, đổi chỗ khác.
Lương Dạ lặng lẽ nhìn nàng thật sâu, không nói một lời, ngồi xuống chỗ cũ.
Trình Hàn Lân ngồi bên trái hắn, lấy từ tay áo ra một chiếc khăn lụa trắng tinh đưa qua: “Huynh đài lau tay đi.”
Lương Dạ cảm ơn, từ tốn lau sạch máu trên tay.
Trình Hàn Lân lại cởi áo khoác ngoài, nhìn hắn đầy ái ngại: “Huynh đài là đang ngủ mơ rồi đến đây phải không? Đến áo ngoài cũng chưa kịp mặc. Nếu không chê, xin mời khoác tạm áo của tại hạ.”
Lương Dạ nói: “Không sao, ta không lạnh.”
“Huynh đài mặt tái xanh cả rồi, khoác vào đi,” Trình Hàn Lân dường như chẳng bận tâm chút nào đến thái độ lạnh nhạt của hắn: “Chốn này thật kỳ quặc, chẳng biết còn phải ở lại bao lâu, mà huynh lại bị thương, nếu cảm lạnh thì phiền lắm.”
Lúc này Lương Dạ mới gật đầu cảm ơn, nhận lấy áo khoác, khoác lên vai.
Trình Hàn Lân nhe răng cười, lộ hàm răng trắng đều: “Không biết huynh đài xưng hô thế nào?”
“Ta họ Lương, tự Tử Minh.” Lương Dạ đáp.
Trình Hàn Lân trợn tròn mắt, há hốc miệng, đến mức có thể nhét vừa một quả trứng gà.
“Lương Tử Minh? Ồ! Huynh chính là vị khôi thủ tiến sĩ Lương Tử Minh ấy sao?! Người Liêm Châu… Khớp rồi!”
Chưa kịp đợi đối phương trả lời, Trình Hàn Lân đã bắt đầu kêu than rền rĩ: “Lương Tử Minh ơi là Lương Tử Minh, huynh hại ta khổ không kể xiết!
“Huynh có biết ba năm nay ta đã chép thơ văn của huynh bao nhiêu lần không? Huynh viết một bài, cha ta lại bắt ta học thuộc một bài! Huynh nói xem, sao huynh lại viết giỏi đến thế chứ!
“Cha ta cứ đem huynh ra giễu ta: Người ta Lương Tử Minh thơ văn song tuyệt, sách văn hùng hồn khí khái, mới hai năm vào Quốc Tử Giám đã đỗ đầu tiến sĩ, còn ngươi thì sao, hả? Ngoài khuôn mặt nhìn được thì chẳng có gì!
“Không ngờ đến cả khuôn mặt huynh cũng đẹp như vậy! Huynh không thể chừa cho phàm nhân chúng ta một con đường sống hay sao?!”
Hải Triều giận sôi, lúc nãy nàng còn thấy Trình Hàn Lân là người tử tế, nào ngờ lại không có tiền đồ như vậy.
Trên mặt Lương Dạ không có lấy nửa phần đắc ý hay ngại ngùng, chỉ hơi khom người: “Quá khen.”
Nam tử áo xanh cũng chắp tay thi lễ: “Lương công tử quả là tài tử tuổi trẻ, thất lễ thất lễ.”
Trình Hàn Lân lấy làm lạ: “Huynh đài chưa từng nghe qua đại danh của Lương Tử Minh sao?”
Nam tử áo xanh nói: “Hổ thẹn, tại hạ chỉ là một tiểu thương, lại sống nơi sơn dã hẻo lánh, kiến thức nông cạn.”
Trình Hàn Lân: “Nhìn huynh đài phong thái văn nhã, khẩu âm chuẩn chỉnh, nói năng mạch lạc, tại hạ ngỡ là nho sinh… xem ra đoán sai rồi.”
Nam tử áo xanh đáp: “Nói ra thật thẹn, tại hạ cũng từng không biết lượng sức mình thi Minh Kinh khoa, tiếc là thi mãi không đậu, mấy năm trước đành trở về quê cũ ở Kiềm Châu, mở một tiệm buôn nhỏ, ngoài ra còn thay người viết thư, chép kinh chép sách…”
Trình Hàn Lân: “Thì ra là vậy.”
“Phải rồi, nói mãi mà chưa giới thiệu.” Nam tử áo xanh chắp tay, “Tại hạ họ Giang, tên một chữ Thận.”
Giang Thận lại đem tình hình của những người khác đơn giản kể cho Lương Dạ nghe một lượt, cuối cùng đảo mắt nhìn quanh, cười khổ: “Không rõ nơi đây là đâu, chúng ta ai nấy đều mù mờ, không biết Lương công tử có cao kiến gì chăng?”
Lương Dạ trầm ngâm: “Trong chư vị, ai là người đến nơi này đầu tiên?”
Giang Thận đáp: “Là pháp sư.”
Vị sa môn kia khẽ mở mắt.
Lương Dạ liếc nhìn ông ta: “Lúc đó nơi này không có ai khác?”
Sa môn khẽ gật đầu.
Lương Dạ lại hỏi: “Pháp sư có động vào vật gì ở đây chăng?”
Mặt sa môn sầm xuống, trừng mắt giận dữ: “Thí chủ nói vậy là có ý gì?”
“Tại hạ không có ác ý,” Lương Dạ bình thản đáp, “Chỉ cần pháp sư trả lời có hay không là được.”
Sa môn hừ một tiếng: “Bần tăng chỉ đến sớm hơn nữ thí chủ một chút, có thể động vào cái gì? Bần tăng là người đoạn tuyệt thất tình lục dục, đâu có màng chuyện trần thế, thí chủ chớ nên xem bần tăng là phạm nhân mà tra xét.”
Lương Dạ khẽ gật đầu, giọng vẫn lạnh lùng: “Vậy xin hỏi pháp sư, trong vạt áo giấu vật gì?”
Mọi người đều kinh ngạc, đồng loạt nhìn về phía vị sa môn, quả nhiên thấy ngực áo ông ta hơi phồng lên.
Thế nhưng sa môn chẳng hề lúng túng, chỉ lạnh lùng cười: “Trong áo bần tăng giấu cái gì thì liên quan gì đến các ngươi? Dù sao cũng không phải trộm không phải cướp. Tiểu tử miệng còn hôi sữa, nói năng hồ đồ!”
Giang Thận vội đứng ra hòa giải: “Pháp sư bớt giận, Lương công tử có lẽ hiểu lầm gì đó.”
Lương Dạ giơ tay chỉ về phía chủ thần điện: “Trên tượng thần kia thiếu một vật, kích thước trông giống hệt vật trong áo pháp sư.”
Mọi người lập tức nhìn về phía tượng đá, nhưng không ai nhận ra điểm gì lạ.
Trình Hàn Lân bước tới gần thần điện, gãi đầu: “Tượng này thiếu gì sao? Sao ta không nhìn ra?”
Lương Dạ nói: “Tượng này hai cánh dang rộng, tứ chi bám đất, là tư thế bắt giữ.”
Trình Hàn Lân nói: “Tại hạ chỉ thấy dáng vẻ cổ quái, thì ra là vậy.”
Sa môn cười lạnh: “Ngươi nói như thể tận mắt chứng kiến. Dựa vào một tư thế mà vu ta trộm cắp, thật là quá đáng!”
Lương Dạ nói tiếp: “Hơn nữa, bục đá phủ đầy bụi, chỉ có khoảng ba tấc vuông giữa móng vuốt là sạch bóng.”
Trình Hàn Lân đập tay tán thưởng: “Quả đúng! Ánh mắt tinh tường như vậy, không hổ là Lương Tử Minh!”
Hải Triều liếc xéo hắn một cái, tên Trình Hàn Lân này đúng là chưa thấy đời, cứ hở chút là ngạc nhiên. Nàng và Lương Dạ lớn lên bên nhau, mấy bản lĩnh này thấy mãi thành quen.
Khi nhỏ đám trẻ con chơi trốn tìm, bất kể trốn đâu, Lương Dạ đều tìm ra đầu tiên.
Nàng vốn hay quên đồ, mỗi lần làm mất gì cũng đều do Lương Dạ tìm giúp.
Lương Dạ nhìn về phía sa môn: “Pháp sư lấy ra xem thử đi, nếu là hiểu lầm, tại hạ xin nhận lỗi với ngài.”
Giang Thận nói: “Pháp sư cho chúng ta nhìn thử một chút, để hóa giải hiểu lầm.”
Trình Hàn Lân cũng khuyên nhủ: “Biết đâu vật đó ẩn chứa manh mối rời khỏi nơi này. Huống hồ nơi đây quỷ dị trùng trùng, nếu vật ấy là điềm xấu, giữ lại trong người chẳng phải hại mình hại người sao?”
Sa môn kia nghiến chặt răng, gân xanh nổi rõ trên cổ…
Hải Triều ghét nhất loại người không biết nặng nhẹ, ham của quên mạng như vậy, thẳng thừng nói: “Tên trọc thối kia, ngươi biết đường ra khỏi đây chưa? Cẩn thận có mạng lấy trộm, không có mạng tiêu xài.”
“Ngươi!” Hòa thượng giận dữ nhảy dựng lên, làm như muốn ra tay, trong lúc nhất thời quên mất mình đang giấu thứ gì trong áo.
Một vật màu đỏ trượt ra khỏi vạt áo, suýt nữa thì rơi xuống đất.
Hải Triều mắt nhanh tay lẹ, vươn tay chộp lấy, vừa nhìn đã thấy đó là một khối ngọc đỏ hình trái tim, chất ngọc trong suốt sáng bóng, điêu khắc sinh động như thật, cầm trong tay như có ảo giác nó đang đập thình thịch.
Nhìn qua đã biết là vật báu vô giá, chẳng trách tên sa môn kia lại nổi lòng tham.
Hải Triều trừng mắt nhìn ông ta: “Nhìn đi, thứ này là của ngươi sao?”
Khuôn mặt sa môn nghẹn đến tím tái, giận dữ lầm bầm: “Ta chỉ thấy lạ nên cầm lên xem, ai thèm thứ tà ma này!”
Ông ta đã thừa nhận, Hải Triều cũng không tiếp tục bám riết nữa.
Trình Hàn Lân đón lấy khối ngọc đỏ, cẩn thận đặt trở lại vị trí ban đầu.
Quả nhiên, khi tượng thần nắm giữ “trái tim”, tư thế lập tức trở nên hài hòa hơn, nhưng cũng toát lên cảm giác quỷ dị rợn người rõ rệt hơn.
Hải Triều tinh mắt nói: “Vuốt nó… hình như đang động đậy!”
Lời còn chưa dứt, chẳng những vuốt, mà đôi cánh đá của tượng thần cũng bắt đầu từ từ lay động.
Chỉ nghe “cạch cạch cạch” một tràng cơ quan chuyển động, bệ đá dưới chân tượng thần chậm rãi mở ra hai bên, lộ ra một hộc đá rộng chừng một thước, bên trong đặt một cuộn bố thư và một thanh đoản đao cán đồng. Cán đao được khắc hình nhân thú, còn thân đao phủ đầy văn tự điểu triện.
Mọi người đồng loạt nhìn về phía sa môn.
Ông ta tức đến phát điên: “Nhìn ta làm gì! Tin hay không thì tùy, lúc ta đến thì thứ đó đã rơi trên đất rồi!”
Trình Hàn Lân lấy bố thư ra, mang tới bên đống lửa, cẩn thận mở ra, mọi người đều vây lại xem.
“Lại là văn tự điểu triện…” Trình Hàn Lân lẩm bẩm.
“Trình công tử nhận ra được chứ?” Giang Thận hỏi.
“Tại hạ chỉ biết chút da lông. Nghe nói ở Quốc Tử Giám Tây Kinh có một vị trực giảng rất tinh thông điểu triện, đáng tiếc là nước xa không cứu được lửa gần, giờ chẳng thể hỏi.” Trình Hàn Lân chỉ vào hình vẽ thô ráp trên bố thư, “May là có hình đi kèm văn tự, có thể dựa vào đó để suy đoán một phần…”
Hắn vừa nhíu mày vừa suy nghĩ, chậm rãi đọc:
“Trinh tường y hà, quyết duy Tây Châu.
Diểu diểu minh minh, hữu duyên giả chí.
Yêu bất tự tác, nhân tất yêu chi.
Thất cảnh thất kiếp, họa phúc tương thừa.
Tiễn bỉ yêu vọng, thu bỉ tội cổ.
Khứ ngụy hoàn chân, bảo ngã hậu sinh.
Tràng tai chí phúc, hồn kỳ quy hĩ.”
Hải Triều nghe đến hoa cả tai: “Nói tiếng người nghe hiểu đi.”
Trình Hàn Lân đáp: “Đại khái là, nơi đây gọi là Tây Châu, là một vùng phúc địa, chỉ người có duyên mới đến được. Phải đi qua bảy nơi, trải qua bảy kiếp nạn, trừ yêu hàng ma, thu phục tội nghiệt, tìm ra chân tướng, mới có thể khiến hồn phách trở về, tức là trở lại thế giới của chúng ta.”
“Ý là… chúng ta đã chết rồi sao?” Hải Triều hỏi.
Trình Hàn Lân nhíu mày, suy nghĩ một lúc, vẻ khá lão luyện: “Theo như vô số truyền kỳ mà tại hạ từng đọc, khả năng lớn là chúng ta chỉ ‘chết giả ly hồn’. Nếu có thể rời khỏi nơi này kịp thời, sẽ sống lại.
“Chỉ là… trong những chuyện xưa truyền kỳ đó, hồn phách người ta thường mắc kẹt tại địa phủ Hoàng Tuyền, còn chỗ này… quả thực là chưa từng nghe đếm. Nếu thất bại trong kiếp nạn, thì có lẽ sẽ chết thật.”
Mặt ai nấy đều có phần tái đi, chỉ riêng Lương Dạ vẫn bình thản như thường: “Phải làm thế nào?”
“Phải đợi đến giờ Thìn, khi ánh nắng chiếu xuống đỉnh đầu rọi vào tượng thần, đàn tế sẽ hiện ra.” Trình Hàn Lân chỉ vào một bức hình trên bố thư.
Hải Triều chỉ miễn cưỡng nhận ra vài hình vẽ xiêu vẹo như quả bí và củ cải, một đám tiểu nhân đang vây quanh thứ trông giống cái ao, nàng còn tưởng bọn họ đang câu cá, không khỏi âm thầm bội phục Trình Hàn Lân.
“Sau đó, từng người dùng tế đao rạch da, nhỏ máu lên tim ngọc…” Trình Hàn Lân nói tiếp, “Đợi đến khi tim ngọc bắt đầu nhảy, đèn hồn sáng lên, sẽ mở được cánh cổng đầu tiên là Hỏa môn, mọi người lần lượt bước vào.”
Hắn tiếp tục mở bố thư. Lần này Hải Triều cũng hiểu được đoạn tiếp, mấy tiểu nhân cầm gậy gộc, đao rìu, đang chiến đấu với một con quái xà đầu có ba mấu.
Tuy hình vẽ rất thô sơ, nhưng con rắn ấy uốn lại thành một khối to như núi, tiểu nhân bên dưới trông chẳng khác gì đàn kiến nhỏ.
Trình Hàn Lân nói: “Những bức vẽ phía sau hơi khó đoán… Tử Minh có cao kiến gì không?”
Lương Dạ chăm chú xem một hồi rồi nói: “Năm bức tranh này thể hiện bốn kết cục. Thứ nhất là bị yêu quái nuốt chửng; thứ hai là tìm chỗ trốn, qua được bảy ngày bảy đêm, bảy lần mặt trời, bảy lần mặt trăng nhưng đến giờ vẫn chết; thứ ba là giết được yêu nhưng không hoàn thành điều kiện gì đó, cuối cùng cũng toàn quân bỏ mạng; còn ba bức cuối phải ghép lại mà xem.”
Ở bức thứ ba, quái xà vươn thẳng thân mình, miệng phun ra một luồng khói, trong khói mơ hồ hiện bóng người.
Sang bức thứ tư, quái xà biến mất, một tiểu nhân đeo đao cong nâng hai tay, đang nhận lấy vật gì tròn tròn từ tay một người khác.
Tới bức thứ năm, người nâng quả cầu đã biến mất, bên cạnh đám người còn lại xuất hiện thêm một cánh cửa.
Lương Dạ cau mày phân tích: “Để mở được cánh cửa tiếp theo, không chỉ cần tiêu diệt yêu quái, mà còn phải lấy được một loại ‘tín vật’.”
“Thì ra là vậy!” Trình Hàn Lân đập tay tán thưởng, “Không hổ là người thông minh nhất Đại Yến, Lương Tử Minh!”
Hải Triều chẳng chịu nổi nữa: “Hắn nói cũng chưa chắc đã đúng.”
Lương Dạ liếc nàng: “Tại hạ chỉ là suy luận theo hình.”
Nhưng Trình Hàn Lân chẳng để tâm đến điều đó, với hắn thì lời của Lương Tử Minh chính là thánh chỉ.
Mắt hắn sáng rỡ nhìn Lương Dạ: “Tử Minh, vậy tín vật đó là gì mới được?”
Lương Dạ đáp: “Thơ có câu: ‘Yêu bất tự tác, nhân tất yêu chi’ nghĩa là yêu không tự sinh, tất do người mời, giữa người và yêu hẳn có liên hệ nào đó, hoặc đồng khí tương ứng, hoặc hai mặt của một thể.”
Trình Hàn Lân: “Vậy phải làm sao để lấy được tín vật đó?”
“Người trong tranh là tự nguyện dâng ra, đủ thấy không thể cưỡng đoạt.” Lương Dạ liếc nhìn Hải Triều, rồi bổ sung một câu: “Chỉ là suy đoán của tại hạ. Thực hư ra sao, chỉ có thể vào ảo cảnh thứ nhất rồi tự mình tìm hiểu.”
Trong lòng Hải Triều thấy khó chịu, nhưng chẳng tìm ra lời nào phản bác, chỉ đành mím môi không nói gì.
Trình Hàn Lân thì đã bội phục sát đất.
Bức tranh cuối cùng cho thấy mấy tiểu nhân quay lại miếu động, đem bảy viên cầu tròn gắn vào các rãnh lõm xung quanh, bố thư đến đây thì kết thúc.
Lương Dạ cẩn thận quan sát hai đầu lụa, sau đó cuộn lại y nguyên như cũ.
Còn vài canh giờ nữa mới đến giờ Thìn, Giang Thận bèn đề nghị chia người ra canh gác luân phiên, những người còn lại đi nghỉ.
Mọi người thấy tiểu thư họ Lục thể chất yếu ớt, định miễn cho nàng khỏi trực đêm, nào ngờ nàng nhìn có vẻ nhút nhát nhưng lại kiên quyết từ chối được ưu ái đặc biệt.
Thế là sáu người chia thành ba tốp: Giang Thận và vị sa môn canh lượt đầu, Hải Triều và cô nương họ Lục canh lượt hai, Lương Dạ và Trình Hàn Lân trực lượt cuối.
Sa môn cười lạnh: “Các ngươi xem bần tăng là kẻ trộm, còn bắt bần tăng trực đêm, không sợ bần tăng mưu tài đoạt mạng hay sao?”
Giang Thận nói: “Thiền sư chỉ là hành động bộc phát, không phải tội lớn. Nay chúng ta rơi vào dị cảnh, cùng hội cùng thuyền, nên đồng tâm hiệp lực, tin rằng thiền sư cũng hiểu được đạo lý này.”
Sa môn khoanh tay hừ lạnh, không nói thêm nữa.
Sắp xếp xong, Giang Thận nói: “Bên trong có mấy tiểu động, cũng khá sạch sẽ, chư vị có thể vào đó nghỉ ngơi.”
“Thế còn tế đao thì sao?” Trình Hàn Lân hỏi.
Giang Thận trầm ngâm một lát: “Nếu mọi người tin được tại hạ, thì cứ để tại hạ giữ tạm trước lúc tế lễ.”
Mọi người không ai phản đối.
Hải Triều vừa định quay vào nghỉ, sau lưng đã nghe Lương Dạ gọi: “Hải Triều, có thể cho ta mượn một bước nói chuyện không?”
Hải Triều không buồn quay đầu: “Ta không có gì để nói với ngươi.”
Lục nương tử nhìn người này rồi lại nhìn người kia, sau đó cúi đầu, giống như chú thỏ hoảng hốt mà nhanh chân lỉnh mất.
“Chỉ vài câu thôi, nói xong ta đi ngay.” Lương Dạ nói.
Hải Triều quay người lại, nhưng không nhìn hắn, ánh mắt lệch sang một bên: “Có gì thì nói mau.”
“Ta chỉ muốn nhắc nàng, hãy cẩn thận vị sa môn đó. Ông ta không phải là người xuất gia thật sự. Còn nữa, chớ nên dễ dàng tin bất kỳ ai.”
Người không đáng tin nhất chính là ngươi, Hải Triều nghĩ.
“Xong chưa? Nói xong thì ta đi.”
“Hải Triều, ta… ta đã làm điều gì sai sao?” Lương Dạ hỏi, giọng khàn khàn, lộ vẻ khổ sở.
Chân Hải Triều khựng lại một thoáng, nhưng nàng không quay đầu: “Không, ngươi chẳng làm gì sai cả.”
Yêu người khác… có tính là sai không? Có lẽ không.
Thế nhưng tủi thân trong lòng lại chẳng thể nào giả được, mà nỗi tủi thân này… nàng cũng không biết phải trút cho ai.
Hải Triều càng nghĩ càng nghẹn, quay đầu lại nhìn hắn, ánh mắt lạnh lẽo: “Thám hoa lang với tiện dân vốn không cùng đường, nay ngươi đã đính hôn với thiên kim đại quan, ta và ngươi từ đây không ai nợ ai, cũng không còn gì liên quan.”
Lương Dạ cụp mắt xuống.
Trong thoáng chốc, Hải Triều hình như trông thấy trên gương mặt hắn lướt qua sự bối rối, nhưng nàng lập tức cho rằng đó chỉ là ảo giác.
Từ trước đến giờ hắn vẫn luôn điềm tĩnh lạnh lùng, dù những năm tháng hai người nương tựa lẫn nhau cũng chỉ là nàng một lòng nóng ruột, còn hắn thì lạnh nhạt đạm nhiên.
Không để hắn kịp mở lời, Hải Triều dứt khoát nói một hơi: “Thám hoa lang chỉ là phượng hoàng gặp nạn, ta không sánh bằng. Nay ngươi bay về cây ngô đồng, mới là lẽ phải.
“Từ nay về sau, Thám hoa lang không cần hạ mình qua lại với tiểu nhân nữa.”
Dứt lời, nàng quay người bỏ đi, không ngoái đầu lại.
***