Chương 2: Lương Dạ
***
Hải Triều bị tiếng sấm làm cho bừng tỉnh.
Nàng đột ngột mở mắt ra, phát hiện bản thân lại đang ở giữa một khu rừng núi.
Hình như là hoàng hôn, phía chân trời sấm ì ầm không dứt, chớp giật kinh động từng bầy quạ chiều.
Gió rít qua rừng như hàng vạn oan hồn cùng lúc hú vang, trong rừng sâu hun hút dường như có thứ gì đó đang ẩn nấp, đang chuyển mình, chỉ chờ bóng đêm buông xuống là sẽ lao ra cắn xé người.
Trước mặt nàng là một lối bậc đá, bậc thang rất dài, dẫn lên lưng chừng núi bị cây cối rậm rạp che phủ, loáng thoáng qua kẽ lá có thể thấy ánh đèn le lói.
Nơi bắt đầu bậc đá có hai cột trụ bằng gỗ được chạm khắc hoa văn, nhìn đã nhuốm màu năm tháng, lớp sơn son thiếp vàng đã bong tróc từng mảng, bệ cột cũng đã mục ruỗng.
Trên đỉnh mỗi cột đều khắc một con chim gỗ, không phải phượng hoàng hay công vàng thường thấy, mà là hai con chim nhỏ, lớp sơn màu trên thân đã bong tróc gần hết, nhưng trong mỏ mỗi con lại ngậm một viên bảo châu lấp lánh ánh sáng, từ xa nhìn cứ như hai ngọn đèn nhỏ đang cháy.
Đây là đang nằm mơ sao?
Hải Triều nhéo mạnh vào bắp tay, đau đến “hít” một tiếng.
Không giống mộng chút nào.
Chẳng lẽ nàng đã chết? Chẳng lẽ đây là Quỷ Môn Quan?
Nàng sờ bên hông, may thay dao mò ngọc vẫn còn đó.
Đang nghĩ ngợi, bỗng từ trên đỉnh bậc đá vọng xuống tiếng chu đồng ngân vang, âm thanh trầm đục như chuông chùa, nhưng lại khác biệt với mọi tiếng chuông mà Hải Triều từng nghe, bên trong như ẩn chứa một thứ sức mạnh cổ xưa và thần bí hơn nhiều.
Trực giác mách bảo nàng: sau khi bóng đêm bao phủ núi rừng, chỉ nơi đó mới là an toàn.
Nàng bắt đầu bước lên. Hạt mưa to bằng hạt đậu rơi lộp bộp, dần dần kết thành một màn mưa dày đặc.
Bậc đá phải đến hơn trăm cấp, nhưng hai bên cây cối cành lá sum suê như mái vòm, che khuất phần lớn mưa, nên khi Hải Triều leo lên cũng không bị ướt nhiều.
Trên cùng là một cổng núi, đi qua cổng lại thêm vài chục bậc thang nữa, rồi hiện ra trước mắt nàng là một ngôi miếu đá được đục sâu vào vách núi.
Trước cửa có một tấm bia đá, trên khắc hai chữ, gọi là chữ nhưng lại giống hình vẽ hơn, cong cong ngoằn ngoèo, cổ quái khó hiểu, Hải Triều chưa từng thấy kiểu chữ nào như vậy.
Đang mải nhìn, bỗng sau lưng vang lên giọng một nam nhân, vừa như tự nhủ: “Đây là điểu triện* mà…”
(*Điểu triện: loại chữ cổ hiếm gặp, chữ triện biến hóa, nét chữ như chim bay, thường dùng trên đồ đồng cổ.)
Hải Triều quay đầu lại, thấy đó là một nam tử chừng hai mươi tuổi, đội mũ lông hồ ly, khoác áo gấm rực rỡ nhiều màu, trông cứ như một con trĩ sặc sỡ.
Hắn có dáng vẻ môi hồng răng trắng, ngũ quan đoan chính, nhưng không hiểu sao thoạt nhìn cứ thấy… không được thông minh lắm, dùng lời các cụ trong làng nói thì là kiểu “đẹp mà ngốc”.
Nam tử nở một nụ cười tươi, khoe hàm răng trắng đều tăm tắp, càng khiến vẻ ngốc nghếch thêm rõ: “Thất lễ rồi, tật xấu lẩm bẩm một mình của tại hạ lại tái phát… Tại hạ Trình Hàn Lân, ‘Hàn’ trong văn hàn, ‘Lân’ trong kỳ lân, người Lạc Dương. Tiểu nương tử là người nơi đây chăng?”
Hải Triều lắc đầu: “Ta cũng từ ngoài đến. Điểu triện là gì vậy?”
Trình Hàn Lân đáp: “Điểu triện là loại chữ cổ từng thịnh hành ở các nước phương Nam thời Xuân Thu Chiến Quốc, thường là văn tự được khắc trên đồng thau…”
“Hai chữ này là gì?” Hải Triều hỏi, “Ngươi đọc được không?”
“Điểu triện truyền lại chẳng còn mấy, tại hạ cũng chỉ biết sơ sơ… hai chữ này hình như là…” Trình Hàn Lân chăm chú quan sát, “Tây… Châu.”
“Là có ý gì?”
Trình Hàn Lân lắc đầu: “Khó hiểu vô cùng. Thiên hạ có mười lăm đạo, ba trăm năm mươi tám châu, quả có một Tây Châu, chính là vùng Cao Xương cũ, nay thuộc Tây Vực.
Nhưng nhìn cây cỏ nơi đây thì rõ ràng là đất phương Nam, hoàn toàn chẳng ăn nhập gì. Huống chi chữ ‘châu’ này theo bộ thuỷ, là ‘châu’ trong đảo bãi, chứ không phải châu quận hành chính.”
Trên mặt Trình Hàn Lân thoáng hiện chút thất vọng, nhưng rất nhanh đã cười xòa: “Mưa càng lúc càng lớn rồi, vào trong rồi nói tiếp.”
Hai người cùng bước vào, phát hiện bên trong miếu đá rộng chừng ba gian, cao chót vót chẳng thấy đỉnh, trên vách đá vẽ đầy những bức tranh màu, cách vài thước lại khoét một hốc đá, trong đó đặt đèn trường minh, phải đến mấy trăm ngọn, khiến cả gian động sáng rực như ban ngày.
Trong miếu đã có ba người đang ngồi quanh đống lửa.
Một cô nương chừng mười tám mười chín tuổi, dung mạo đoan trang thanh tú, mặc áo gấm váy lựu, thắt bên hông một miếng ngọc trắng như mỡ dê, vừa nhìn đã biết là tiểu thư chưa xuất giá của nhà phú hộ.
Hai người còn lại đều là nam tử. Một người khoảng hơn ba mươi tuổi, mặc áo xanh, đầu đội khăn đen, mặt vuông miệng rộng, vốn là gương mặt đoan chính, nhưng lông mày và đuôi mắt lại cụp xuống, khiến cả người trông uể oải, nhút nhát.
Người cuối là một hòa thượng trung niên, vận một chiếc cà sa cũ kỹ bẩn thỉu, không nhìn ra được màu nguyên bản, thân hình cao lớn lực lưỡng, ngũ quan bình thường, chỉ riêng sống mũi không hiểu sao bị gãy thành hai đoạn, trông như một con sâu thịt vặn vẹo và xấu xí nằm chềnh ềnh trên mặt.
Hòa thượng ngồi xếp bằng, lần chuỗi tràng hạt, mắt nhắm hờ. Khi nghe thấy tiếng động, ông ta hé mắt liếc hai người một cái, chỉ khẽ gật đầu rồi lại nhắm lại ngay, bộ dạng như cao nhân thoát tục.
Có điều ánh nhìn đó khiến Hải Triều cảm thấy khó chịu, có cảm giác như bị dã thú trong rừng sâu dõi theo.
Nam tử mặc áo xanh thì tỏ ra thân thiện: “Hai vị cũng là lạc vào đây sao? Bên ngoài đang mưa lớn, lạnh lắm đúng không? Mau lại đây sưởi ấm.”
Hải Triều ngồi xuống bên đống lửa, đưa mắt nhìn quanh, thấy chính giữa vách đối diện cửa động là một bệ thờ, đặt một bức tượng đá, chẳng phải Phật cũng chẳng phải Đạo, mà là một quái vật đầu chim thân người, sau lưng mọc hai cánh.
Sinh vật đó có ba con mắt, mặc áo bào như người, nhưng lại ngồi xổm như chim sẻ, cả tay chân đều là vuốt chim, nhìn lâu khiến người rợn cả tóc gáy.
Hải Triều vội dời mắt, quay sang hỏi người nam tử có gương mặt hiền lành kia: “Đây là nơi nào? Sao chúng ta lại đến được chốn này?”
Nam tử áo xanh khẽ cười khổ, lắc đầu: “Tại hạ cũng chẳng hiểu ra sao nữa.”
Mọi người lần lượt kể lại chuyện mình đến đây.
Cô nương trẻ họ Lục, người Dương Châu, đang yên đang lành nằm nghỉ trong phòng, vậy mà ngủ dậy đã thấy mình ở nơi quái lạ này.
Hòa thượng là một tăng nhân vân du, trú tạm tại một tiểu tự gần kinh kỳ, trước lúc tới đây còn đang ngồi thiền.
Đến lượt Trình Hàn Lân, hắn tính tình thật thà, kể chuyện như trút đậu từ ống tre, khai hết không giấu giếm.
Hắn là con nhà buôn giàu có ở Lạc Dương, tổ tiên làm giàu nhờ buôn da thú, nay chuyển sang kinh doanh cổ thư cổ vật, có cửa hàng khắp hai kinh và đất Thục.
Phụ thân hắn kỳ vọng đứa con trai duy nhất có thể học hành đỗ đạt, nhưng hắn chẳng màng công danh, chỉ thích sưu tầm truyền kỳ dã sử xưa nay.
Khi hắn đang trên đường đến An Tây thu gom sách cổ, đi qua vùng cát hoang, bất ngờ gặp sương mù, thiếp đi trên xe lạc đà rồi tỉnh dậy đã ở đây.
Nam tử áo xanh hỏi Hải Triều: “Nhìn trang phục của tiểu nương tử, hình như là người phương Nam?”
Hải Triều khẽ gật đầu: “Ta là người ven biển Liêm Châu, dân mò ngọc trai. Gặp phải sương mù trên biển, ngủ một giấc rồi tỉnh dậy ở đây.”
“Thú vị, thú vị thật.” Hai mắt Trình Hàn Lân sáng rực rỡ, “Tại hạ đọc khắp truyền kỳ chí dị, cũng chưa từng gặp chuyện nào kỳ lạ như vậy. Nếu đem chuyện này viết thành sách, khắc bản in ắt sẽ làm chấn động văn đàn, giấy Lạc Dương đắt như vàng…”
Hải Triều: “……” Nghe giọng điệu hắn còn vẻ vui mừng nữa.
Trình Hàn Lân hình như cũng nhận ra mình lỡ lời, xấu hổ gãi đầu: “Lúc nãy xúc động quá, xin lỗi, xin lỗi.”
Nam tử áo xanh nói: “Chúng ta đều gặp phải sương mù, xem ra trong đó quả thật có ẩn tình gì đó. Phải rồi, tại hạ còn chưa kịp tự giới thiệu, tại hạ họ…”
Lời còn chưa dứt, nụ cười của hắn bỗng đông cứng trên gương mặt, trong mắt lộ ra vẻ kinh hoàng.
Hải Triều quay đầu nhìn lại, lập tức hiểu vì sao hắn lại có vẻ như trông thấy quỷ vậy.
Có người vừa bước qua màn mưa, tiến vào trong hang.
Người đó vận áo trắng, tóc dài xõa xuống, toàn thân ướt sũng vì mưa, từng bước từng bước chậm chạp loạng choạng, nước từ người nhỏ tí tách xuống nền đá.
Hải Triều đột nhiên cảm thấy bóng dáng ấy rất đỗi quen thuộc, chưa kịp nhìn cho rõ, một ý nghĩ vô lý đã lướt qua đầu nàng như chớp.
Trái tim nàng đập loạn, máu toàn thân như dồn cả lên đầu.
Người nọ chậm rãi tiến lại gần, ánh lửa trong động soi lên gương mặt trắng bệch, phản chiếu qua đôi mắt sâu đen thăm thẳm.
Ý nghĩ vô lý kia, bất chợt hiện hình rõ ràng trước mắt nàng.
Là Lương Dạ.
***