Chương 142: Cô Hoạch Ca (10)
***
Tổng cộng mười hai đứa trẻ được chọn, bốn nam, tám nữ, lớn nhất mười hai mười ba tuổi, nhỏ nhất chính là Hải Triều.
A hoàn áo xanh lúc nãy đi ở phía trước dẫn đường, bọn trẻ xếp hàng ngay ngắn theo sau, lão ma ma đi cuối cùng. Mới bước đi được mấy trượng, lão nương đã chỉ vào Hải Triều mà hỏi a hoàn ở Bi Điền Phường: “Con bé này sao lại đi tập tễnh thế?”
A hoàn khó mở miệng nói nửa đêm nó tự tiện chạy loạn, đành đáp: “Hôm qua nó không cẩn thận bị trẹo chân, nó còn nhỏ lại nghịch ngợm, chi bằng ma ma đổi đứa khác đi?”
Lão ma ma hỏi: “Đứa nhỏ này tên là gì?”
A hoàn đáp: “Họ Vọng, tên Hải Triều.”
Khóe miệng lão ma ma hơi đưa xuống: “Chuyện này lão thân không làm chủ được, ngươi lại càng không, tiểu đồng này là nương tử đích danh gọi tên muốn.”
Bà ta lại quay đầu hỏi Hải Triều: “Có đi nổi không?”
Hải Triều gật đầu: “Đi được.”
“Đi được thì tốt.” Lão ma ma nói, “Đến nơi rồi kêu đại phu qua khám, thoa chút dược là ổn.”
Nói xong liền vung tay, ý bảo bọn trẻ tiếp tục đi.
Khó khăn lắm mới đi tới một viện u tĩnh, cây cỏ xanh tươi, thiền phòng nhã khiết. Hải Triều ngỡ rằng sắp được diện kiến người Trịnh gia, không ngờ lão ma ma lại dẫn bọn họ thẳng vào tiểu viện bên cạnh, bắt xếp thành một hàng ngay ngắn, bản thân thì bận rộn ra vào, song lúc nào cũng kín đáo liếc mắt quan sát bọn họ.
Hải Triều hiểu đây là đang ngấm ngầm quan sát cử chỉ hành động của bọn họ, nhưng những đứa trẻ thật kia nào biết gì, lâu dần có vài đứa bất an, ghé tai nhau thì thầm.
Lão ma ma cứ thế mặc kệ bọn họ nửa khắc đồng hồ mới quay lại, điểm bốn đứa ra, gọi một a hoàn đến: “Mấy đứa này tính tình không vững, đưa trả về đi.”
Mấy đứa nhỏ kia thất vọng vô cùng, có đứa lập tức òa khóc. Lông mày lão ma ma nhăn lại thành chữ “xuyên”, phiền chán xua tay lia lịa.
Đợi tiếng khóc dần xa, lão ma ma quét mắt qua bọn còn lại: “Chủ nhân ban ân cho các ngươi được hầu hạ tiểu lang quân, tiểu nương tử, đó là phúc phận to bằng trời. Người sống một đời, quan trọng nhất là biết trân quý phúc phần. Các ngươi theo hầu tiểu lang quân, tiểu nương tử, phải luôn ghi nhớ phép tắc, siêng năng cẩn thận. Nếu hầu hạ hết lòng khiến chủ tử hài lòng, chưa biết chừng sẽ đem các ngươi theo về Trịnh phủ ở Kiến Nghiệp.”
Trong lòng Hải Triều cười khẩy, nghe giọng điệu của lão ma ma này thì được làm nô bộc cho nhà họ Trịnh chẳng khác nào được bay lên tiên.
Lão ma ma răn dạy xong, lại hỏi đứa đứng đầu hàng, là đứa bé lớn tuổi nhất, cũng cao gầy nhất: “Các ngươi đã học nhận biết chữ nghĩa chưa?”
Tiểu cô nương gật đầu: “Đã được Quách nương tử dạy dỗ.”
Lão ma ma nhíu mày: “Bề trên hỏi han, nên đáp thế nào, chẳng lẽ A Quách không dạy các ngươi sao?”
Tiểu cô nương lập tức nước mắt lưng tròng: “Bẩm ma ma, Quách nương tử đã dạy rồi ạ, là ta…”
“Là ‘nô’!”
Đứa bé vội vàng đổi lời: “Là nô thất lễ.”
“Lão thân chẳng phải cố ý làm khó các ngươi.” Giọng lão ma ma dịu đi đôi chút, “Nhưng nhà họ Trịnh ở đất Ứng Dương không phải nhà người thường. Các ngươi muốn theo hầu tiểu chủ, những thói quen tục tằn sơn dã tuyệt đối không được mang theo, nếu khiến lang quân nương tử phật lòng, thì phúc phần của các ngươi cũng tới đây là hết.”
Trong bụng Hải Triều không phục, nhưng ngoài mặt cố nén, giờ phút này quan trọng là tiếp cận người nhà họ Trịnh, không thể vì chút tự ái mà lỡ chuyện lớn.
“Các ngươi đã đọc những sách nào? Nhận được bao nhiêu chữ?”
Tiểu cô nương kia đáp, mấy nam hài lớn hơn đã học qua Thiên Tự Văn và hơn mười thiên trong Thi Kinh, nữ đồng thì học Nữ Giới.
Lão ma ma bảo tiểu cô nương đọc thử thiên “Ti Nhược” trong Nữ Giới, tiểu cô nương đọc khá trôi chảy.
Lão ma ma hơi giãn mày, quay sang a hoàn bên cạnh: “Biết được dăm ba chữ cũng coi là tạm được. Hôm nay ngươi phải dạy chúng nó quy củ, trước khi mặt trời lặn phải khảo xét kỹ, không được để kẻ quê kệch trà trộn vào, làm bẩn tai mắt chủ nhân.”
Trong giọng nói chẳng thèm che giấu sự khinh ghét, như thể những đứa trẻ này là thứ ô uế không nên chạm đến, trên người còn mang dịch bệnh. Hải Triều nghe mà nổi giận, suýt chút nữa không nhịn nổi, may nhờ Lục Uyển Anh kịp thời nắm lấy tay nàng, nàng mới ép mình bình tĩnh lại.
Lão ma ma dặn dò thêm mấy câu rồi rời đi, để lại a hoàn áo xanh kia dạy bọn họ quy củ.
A hoàn ấy tự xưng Lan Xạ, là một trong những thị tỳ thân cận của Trịnh nương tử, tuy trông chỉ chừng hơn hai mươi, nhưng chín chắn cẩn trọng, ít cười ít nói, khiến ai cũng chẳng dám lỗ mãng.
Bất quá Lan Xạ đối xử với bọn trẻ cũng không quá nghiêm khắc, chỉ dạy dỗ quy củ từng điều từng điều vô cùng cẩn thận.
Hải Triều nóng lòng muốn gặp mấy đứa trẻ nhà họ Trịnh, nhưng cũng biết nóng vội chẳng được gì, đành nhẫn nại học lễ nghi.
Tính nàng vốn phóng khoáng, song chung quy không phải trẻ con, lại từng làm công trong nhà huyện lệnh, nên học những thứ này chẳng khó nhọc gì. Lương Dạ và Lục Uyển Anh thì không cần phải nói, khiến Lan Xạ tuy chẳng nói gì nhưng liên tục gật gù, thỉnh thoảng còn không giấu được vẻ ngạc nhiên.
Sau khi dạy xong cách ứng xử, Lan Xạ gọi hai tiểu a hoàn trông chừng bọn họ luyện tập, bản thân rời khỏi viện.
Hai a hoàn kia khoảng mười bốn mười lăm tuổi, đúng độ tuổi ham vui thích cười. Vừa thấy “thượng cấp” đi rồi, bèn ngồi ghé trên bậc thềm, đầu kề đầu rì rầm to nhỏ.
Hải Triều giả vờ thản nhiên dịch lại gần, vểnh tai nghe lỏm. Nghe được một bụng chuyện vô bổ, cuối cùng mới nghe một a hoàn nói: “Này, ngươi nghe chưa, cái xác của đứa cô nhi trong Phật đường đêm qua biến mất rồi…”
A hoàn lại có chút cảnh giác: “Lý ma ma đã dặn, không được nhắc những chuyện này…”
“Bà ấy đâu có ở đây, thì có gì to tát chứ.” A hoàn còn lại chẳng coi ra gì, “Đám kia đều là trẻ con, biết được cái gì. Ta sắp nghẹn chết rồi đây này!”
Xảy ra chuyện kinh người như thế, hiển nhiên đồng bạn cũng nín nhịn khó chịu, hạ thấp giọng nói: “Đã truyền khắp nơi rồi, nói là cửa Phật đường khóa chặt, chỉ có một ô cửa sổ cao là mở, trên bậu cửa có vết máu…”
“Ý ngươi là cái xác được đưa ra ngoài qua cửa sổ?”
“Đa phần là thế.”
“Cửa sổ cao như vậy, làm sao khiêng được người ra?”
“Trong Phật đường cũng chẳng có thang… ai ai đều nói chẳng phải người làm…”
“Không phải người, chẳng lẽ là cái đó?” Giọng nàng ta run lên.
“Chẳng phải thì là gì. Trên xác còn có ba chấm máu, nhiều người tận mắt nhìn thấy…”
“Nếu thứ đó từ Kiến Nghiệp bám theo tới đây, thì lang quân, nương tử bày ra trận thế lớn trốn vào núi này, chẳng phải công toi rồi sao!”
“Suỵt!” Người còn lại khẩn trương nhìn ra cổng viện, không thấy ai đến mới thở phào: “Những lời này tuyệt đối không thể nói bậy, để Lý ma ma hay Lan Xạ nghe thấy, không thoát khỏi trận đòn roi.”
“Cứ yên tâm, ta vẫn canh chừng,” A hoàn lại hạ giọng gần như không nghe được, “Nghe A Di ta nói, đứa trẻ nào bị thứ đó nhắm vào, sẽ chẳng giữ nổi, kiểu gì cũng có chuyện… ngay cả tiểu công tử nhà họ Vương cũng chẳng thoát. Nếu tiểu nương tử của chúng ta có mệnh hệ gì, e là…”
Tim Hải Triều thắt lại, thì ra nhà họ Trịnh cũng có một tiểu nương tử bị Cô Hoạch Điểu đánh dấu, bọn họ tới ẩn náu trong ngôi chùa trên núi này chính là để tránh họa.
Có điều Trịnh gia có đến hai vị tiểu nương tử, không biết rốt cuộc là ai bị loài yêu nghiệt đó bám theo.
A hoàn nửa thật nửa đùa oán trách: “Cái thứ đó cũng thật là, nếu sớm muộn phải bắt một người, sao không bắt luôn vị kia đi…”
“Ngươi dám nói như vậy, không muốn sống nữa à!”
“Có ai ngoài chúng ta nghe đâu, nói thì có hề gì. Trên đời sao lại có đứa trẻ như vậy… đôi lúc chỉ cần hắn nhìn ta một cái thôi cũng lạnh cả sống lưng, chẳng trách ngay cả lang quân cũng chẳng ưa nổi.”
“Dù có chán ghét thế nào, hắn cũng là con nối dõi duy nhất của phủ, mai sau chưa biết chừng còn thừa kế gia nghiệp, không thể đắc tội.”
“Ta nào có ngốc, sao dám để lộ ra ngoài mặt!” A hoàn hậm hực, “Nếu chẳng phải ngày trước hắn bày mưu tính toán… thì tiểu công tử của chúng ta đã hai tuổi rồi… Có điều lần đó là có tâm tính toán, vô tâm trúng kế, nương tử tuổi còn trẻ, lang quân cùng nương tử lại tình thâm nghĩa trọng, sớm muộn cũng sẽ sinh ra đích tử, gia nghiệp này sao có thể rơi vào tay hạng người đó…”
Hải Triều giả bộ ngồi xổm dưới gốc cây, ra vẻ chăm chú nhìn đàn kiến tha mồi, nhưng từng câu từng chữ đều lọt rõ ràng vào trong tai.
Xem ra vị tiểu lang con thứ kia trong phủ vốn không được ai ưa, ngay cả cha ruột cũng ghét bỏ. Từ lời của bọn họ thì dường như Trịnh phu nhân từng mang thai, nhưng vì hắn mà thai hỏng.
Nghĩ đến thiếu niên quỷ dị trong Phật đường tối qua, sau lưng Hải Triều thoáng lạnh buốt.
May mà hắn chưa thấy được mặt nàng.
Còn đang ngẫm nghĩ thì chợt một a hoàn chú ý tới nàng: “Ôi chao, con bé này ngồi xổm ở đây làm gì? Quy củ đã dạy ngươi, học thuộc chưa?”
Hải Triều tập tễnh bước hai bước, đáng thương nói: “Tỷ tỷ, chân muội bị trẹo, đứng lâu thì đau lắm…”
Từ nhỏ nàng đã có tướng mạo khiến khiến người ta dễ sinh lòng thương mến, hai a hoàn kia thấy bộ dáng như vậy thì mềm lòng ba phần, lại thấy nàng tuổi còn nhỏ, cũng chẳng mấy phòng bị. Một người bèn nói: “Thừa dịp ma ma và Lan Xạ tỷ tỷ không ở đây, ngươi cứ ngồi lên bậc nghỉ một lúc đi, đừng nói là bọn ta cho ngươi lười biếng, biết chưa?”
Hải Triều vội vàng gật đầu: “Đa tạ các tỷ, các tỷ xinh đẹp thế này, quả nhiên là người có lòng nhân hậu.”
Một a hoàn vươn tay nhéo nhéo gương mặt tròn trịa của nàng: “Con bé này ngoan thật, cái miệng như thoa mật vậy.”
Hải Triều chớp chớp đôi mắt trong veo xanh biếc: “Tỷ tỷ là nói muội nói dối sao? Muội đều nói thật cả, chẳng lừa ai đâu.”
A hoàn kia nói: “Trẻ con thì tâm tính đơn thuần, quả thực chẳng biết nói dối.”
Hải Triều thấy hai người dễ nói chuyện, bèn thừa thế lấy cớ “lời trẻ thơ” mà hỏi: “Tỷ tỷ, nhà họ Trịnh giàu có như vậy, người hầu nhiều như thế, sao còn phải gọi bọn muội tới đây?”
“Là nương tử phân phó. Có lẽ thấy trẻ con lớn lên ở núi rừng thì tâm tư đơn thuần, thân thể khỏe mạnh… tâm ý của chủ nhân ai mà hiểu được? Các ngươi cứ hết lòng hầu hạ, nếu được chủ nhân để mắt, thì có thể theo chúng ta về Kiến Nghiệp, khi ấy chính là thị tỳ thân cận hay thư đồng của tiểu lang quân, tiểu nương tử, cũng là thể diện lắm rồi!”
Hai người lại véo véo má nàng, rồi để nàng ngồi gần đó, còn bản thân tiếp tục trò chuyện dở dang.
“Đã nói cái thứ đó bám theo tới cả Hội Kê rồi, thì trốn ở đây cũng vô ích. Vì sao lang quân, nương tử không đưa mọi người trở về Kiến Nghiệp?”
“Nghe nói hôm qua, sau khi lang quân thấy đứa trẻ gặp nạn kia, đã định quay về. Nhưng tiểu nương tử, tiểu lang quân còn nhỏ, đi đường xa mệt nhọc, không thể ngay trong ngày lập tức hồi thành, nên định ở lại một đêm rồi đi. Nào ngờ hôm qua trời đổ mưa lớn, cuốn sập chiếc cầu treo dưới núi, phải đợi tăng nhân đốn cây dựng lại cầu, ít thì cũng năm sáu ngày.”
Người kia xoa xoa mí mắt: “Chỉ mong đừng xảy ra chuyện, mắt ta cứ giật liên hồi, luôn thấy có điềm chẳng lành.”
Lời chưa dứt, nàng ta đã hô nhỏ: “Có người đến!”
Hai người vội vàng đứng bật dậy, tiện tay kéo Hải Triều đứng lên theo.
Người đến chính là Lan Xạ. Nàng đảo mắt nhìn khắp viện, nghi hoặc nhìn hai tiểu a hoàn: “Bọn họ luyện thế nào rồi? Có đứa nào lười biếng không?”
Hai người đưa mắt nhìn nhau, rồi lắc đầu: “Đều rất chăm chỉ.”
Lan Xạ vỗ tay, gọi bọn trẻ xếp thành hàng, từng đứa lên kiểm tra, chỉnh sửa động tác. Sau đó lại cho gọi Lý ma ma đến, thêm một lượt khảo xét nữa. Còn lại tám đứa học quy củ đều không tồi, lại lanh lợi có mắt nhìn.
Lý ma ma chọn ra hai đứa dung mạo kém hơn loại bỏ, còn lại bốn nữ hai nam, Hải Triều, Lương Dạ và Lục Uyển Anh đều có mặt trong danh sách.
Lý nương nói với Lan Xạ: “Đưa bọn chúng đi tắm rửa, trong ngoài phải chải cọ sạch sẽ, đợi y phục mới may xong, sáng mai thay vào cho nương tử duyệt qua.”
Hải Triều không khỏi hơi thất vọng, cứ ngỡ hôm nay có thể gặp người nhà họ Trịnh, không ngờ lại còn phải mất thêm một ngày nữa.
Có điều vừa rồi nghe lỏm được chuyện của hai a hoàn, cũng coi như chẳng phải tay trắng.
Lan Xạ cùng hai tiểu a hoàn kia dẫn bọn họ đến phòng tắm rửa. Sáu đứa nhỏ vừa ra ngoài thì mặt trời đã xế về tây.
“Phòng ở của chúng còn chưa dọn xong, hãy đưa về Bi Điền Phường, tối nay ngủ thêm một đêm, ngày mai sẽ dời đến nơi khác.” Lan Xạ dặn dò hai a hoàn.
Hải Triều nóng lòng muốn đem những điều vừa nghe được kể cho Lương Dạ và Lục Uyển Anh, đang định bước đi, thì nghe Lan Xạ nói: “Vọng Hải Triều, ngươi ở lại.”
Hải Triều thoáng sững sờ, cổ họng nghẹn lại: “Lan tỷ tỷ… có chuyện gì sao?”
Lan Xạ nói: “Đừng sợ, chỉ là bôi chút thuốc cho mắt cá chân ngươi thôi.”
Lúc này Hải Triều mới thở phào, quay sang nói với Lục Uyển Anh và Lương Dạ: “Hai người đi trước đi, lát nữa ta sẽ về.”
Đợi mọi người đi hết, Lan Xạ dẫn nàng vào gian phòng nhỏ, kéo ghế cho nàng ngồi xuống, rồi lấy dầu thuốc thoa lên mắt cá chân, cẩn thận xoa bóp hồi lâu, mới nói: “Thương tích không nặng, ngày mai nhớ lại đây thoa thêm một lần nữa.”
Hải Triều vội cảm ơn, Lan Xạ chỉ lạnh nhạt gật đầu: “Muốn cảm ơn thì cảm ơn nương tử đi, đây là thuốc người ban, cũng là người dặn ta trông nom ngươi.”
Hải Triều nghiêng đầu, vẻ mặt khó hiểu: “Vì sao nương tử lại đối tốt với muội vậy?”
“Phu nhân vốn thích trẻ nhỏ,” Lan Xạ nói, “Ngươi vận khí tốt, vừa khéo lọt vào mắt người. Hôm qua chẳng phải còn ban đồ ăn cho ngươi sao? Chỉ cần ngươi hết lòng hầu hạ tiểu nương tử, phu nhân ắt sẽ chẳng bạc đãi ngươi.”
Hải Triều giả vờ ngây ngốc gật gật đầu.
Lan Xạ cất bình sứ, lấy khăn lau sạch thuốc trên tay rồi đứng lên nói: “Ta đưa ngươi về.”
Hai người vừa ra khỏi viện, thì có một a hoàn lạ mặt chạy đến: “Lan Xạ tỷ tỷ, nương tử gọi tỷ qua đó.”
Lan Xạ lo lắng nhìn Hải Triều, nàng liền nói ngay: “Tỷ cứ đi bận việc đi, muội tự về được.”
A hoàn lạ mặt cười nói: “Lan Xạ tỷ tỷ đi đi, ta sẽ đưa đứa nhỏ này về Bi Điền Phường.”
Lan Xạ ngập ngừng một thoáng, rồi gật đầu: “Phiền ngươi vậy.”
Nói xong vội vã xách váy mà đi.
A hoàn kia nắm tay Hải Triều: “Đi thôi.”
Hải Triều bị người xa lạ nắm tay, trong lòng không thoải mái.
Dọc theo con đường nhỏ đi khoảng một dặm, đến ngã ba, a hoàn ấy kéo nàng rẽ về phía bắc. Hải Triều lập tức dừng lại: “Tỷ đi nhầm rồi, Bi Điền Phường ở phía nam cơ mà.”
A hoàn sững ra, rồi gượng cười: “Ngươi còn nhỏ nên nhận nhầm đường rồi. Đây rõ ràng là đi về nam, cứ theo ta là được.”
Nói xong kéo nàng đi tiếp.
“Không phải! Muội nhớ đường, tỷ đi sai rồi!” Hải Triều cao giọng, vừa nói vừa giật mạnh tay, muốn thoát ra.
Nhưng a hoàn kia lại nắm càng chặt, kéo nàng đi xồng xộc: “Con bé này thật chẳng biết điều! Nói thật cho ngươi biết, là chủ nhân muốn gặp ngươi, dặn ta đưa ngươi tới, người khác cầu cũng không được đâu!”
Hải Triều lập tức ngồi thụp xuống đất, hét to: “Ngươi muốn đưa ta đi đâu? Ta phải về Bi Điền Phường! Cứu mạng!”
A hoàn kia vội bịt miệng nàng, giận dữ: “Rống cái gì! Đã bảo là chuyện tốt, sao lại chẳng biết điều như vậy!”
A hoàn kia tuy nhìn gầy yếu, nhưng sức lại lớn, tay trái kẹp chặt miệng nàng, khiến nàng chẳng phát ra được tiếng nào, tay phải luồn ngang hông, nhấc bổng nàng lên, bước nhanh về hướng bắc.
Hải Triều giãy giụa kịch liệt, chân đạp loạn xạ, chỉ phát ra được tiếng “ưm ưm”, mong chạm mặt ai đó. Nhưng chốn này quá vắng, trên đường chẳng gặp bóng người nào.
A hoàn kia đi vội một mạch, cuối cùng dừng trước một tiểu thiền viện, đẩy cửa bước vào. Trong viện, dưới giàn hoa tử đằng, một thiếu niên áo tím đang ngồi, cúi đầu mày mò thứ gì.
Hải Triều chưa thấy rõ mặt nhưng chỉ nhìn bóng dáng mà lòng đã trầm xuống.
Nghe động, thiếu niên ngẩng đầu nhìn ra cửa, chính là Trịnh tiểu lang.
A hoàn đặt Hải Triều xuống đất, khép cửa lại, nói với thiếu niên: “Tiểu lang quân, nô đem người tới rồi.”
Thiếu niên nhoẻn cười: “Đa tạ Tước Quế tỷ tỷ.”
Người gọi là “Tước Quế” cười: “Tiểu lang quân khách khí rồi, có việc cứ phân phó nô tỳ là được.”
Thiếu niên hơi hất mí mắt, khóe mắt liếc qua nàng ta một cái: “Tước Quế tỷ tỷ đối với ta tốt như vậy, ta sẽ khắc ghi trong lòng.”
Bị hắn nhìn một cái, mặt Tước Quế chợt đỏ bừng, đưa tay vén mấy sợi tóc rối: “Tiểu lang quân từ từ chơi đùa, nô xin cáo lui.”
Hải Triều thầm thở dài, xem ra chẳng phải tất cả mọi người trong Trịnh phủ đều chán ghét Trịnh tiểu lang.
Nàng ngẫm tính nhân lúc Tước Quế rời đi thì thừa cơ thoát thân, nhưng với đôi chân ngắn ngủn còn đang tập tễnh này, đừng nói chạy thoát, chỉ e còn làm kinh động đến hắn.
Vẫn là đi một bước tính một bước, Trịnh tiểu lang dẫu có điên cũng chẳng dám giữa ban ngày ban mặt giết người.
Nghĩ vậy, nàng trấn định lại.
“Ngươi có biết vì sao ta gọi ngươi đến đây không?”
Hải Triều giả vờ ngây ngốc, lắc đầu: “Muội không biết.”
Thiếu niên khẽ cười bằng giọng mũi, chậm rãi đứng lên.
Lúc này Hải Triều mới trông thấy rõ thứ bị thân hình hắn che lấp trên bàn đá, là một chiếc khay bạc lớn, bên trên đặt một vật máu me be bét, mép khay còn thõng xuống một sợi “dây” màu xám.
Nàng nhìn kỹ, bụng cuồn cuộn suýt nữa nôn ra, đó là một con chuột to béo chết cứng, bụng bị mổ toạc, tim vẫn còn phập phồng trong lồng ngực.
Thiếu niên buông lưỡi dao mỏng như cánh ve trong tay, cầm khăn trắng chậm rãi lau máu trên ngón tay rồi mới ngẩng lên mỉm cười: “Con chuột nhỏ, chúng ta lại gặp nhau rồi.”
***