Chương 137: Cô Hoạch Ca (5)
***
Mưa núi cuối cùng cũng trút xuống, cả ngọn núi bị mây mù bao phủ, trời đất u ám.
Chư tăng đem thi thể đứa bé về chùa, tạm đặt trong Phật đường. Cái chết của một đứa trẻ mồ côi vốn chẳng mấy ai để tâm, nhưng lại phủ lên Chiêu Minh tự một tầng âm u chẳng lành, thậm chí còn lấn át cả khí thế khi Trịnh gia quang lâm.
Các tăng sĩ ai nấy đều mang sắc mặt nặng nề. Trình Hàn Lân theo sau sư huynh Đàm Viễn làm vài việc tạp dịch, thừa cơ lúc người khác không chú ý, bèn len lén hỏi: “Sư huynh, trên áo đứa bé kia có vết máu rốt cuộc có ý tứ gì? Sao mấy người Đàm Siêu sư huynh lại sợ đến thế?”
Đàm Viễn liếc xéo hắn một cái: “Con nít thì đừng nhiều chuyện, đem dù giấy dầu đưa cho sư phụ.”
Trình Hàn Lân nhận lấy cây dù ôm trong ngực, nhưng lại chẳng chịu đi, còn níu tay áo sư huynh: “Sư huynh, sư huynh, nói cho ta biết đi mà… Trên núi này thật có yêu quái chuyên ăn trẻ con sao? Nếu huynh không nói, nhỡ ta cũng bị yêu quái bắt đi ăn thì biết làm sao?”
Đàm Viễn xoa cái đầu trọc lốc của sư đệ, nửa đùa nửa thật: “Đệ cứ gánh phân nhiều vào, yêu quái ngửi thấy thì kêu ‘ôi dào, thằng tiểu hòa thượng này thối quá’, thì nào còn muốn ăn, thế chẳng phải an toàn rồi sao?”
“Thế tức là thật có yêu quái?” Trình Hàn Lân buông hẳn dù ra, ôm chặt cánh tay Đàm Viễn lắc lắc, làm nũng: “Sư huynh cứ nói đi mà…”
Bị hắn quấy không thể làm việc, Đàm Viễn đành đáp: “Được rồi, ta nói cho đệ, nhưng không được đem đi rêu rao với đám trẻ ở Bi Điền Phường, nghe chưa?”
Trình Hàn Lân gật đầu như gà mổ thóc: “Được được được, đệ tuyệt đối không nói.”
Đàm Viễn ngó quanh một vòng, thấy không ai chú ý, mới hạ thấp giọng: “Trong thành gần đây quả có yêu quái, từ đầu xuân đến nay đã mất tích hơn mười mấy đứa trẻ, toàn là con nhà lương thiện. Đấy là số được báo quan, nhưng cộng thêm đám con trẻ dân lưu không cha mẹ, cùng bọn ăn mày, thì càng khó nói rõ con số.”
Trình Hàn Lân giả bộ rùng mình: “Là loại yêu quái gì vậy?”
“Đệ có nghe chuyện Cô Hoạch Điểu chưa?”
Trình Hàn Lân vô cùng quen thuộc mấy thứ quái lực loạn thần này, hắn gật gù: “Nghe rồi, bắt trẻ con đi chính là Cô Hoạch Điểu sao? Có ai trông thấy chưa?”
“Chẳng có ai trông thấy.” Đàm Viễn nói, “Nhưng có mấy người mẹ trước khi mất con, đều phát hiện trên áo chúng có ba vết máu.”
“Những đứa trẻ ấy… đều giống đứa trẻ mồ côi kia rồi ư?” Trình Hàn Lân nuốt nước bọt hỏi.
“Nghe sư phụ bảo, vừa rồi Trịnh lang quân nói với người, những đứa trẻ trong thành đều là ‘sống không thấy người, chết không thấy xác’. Hôm nay, mới là lần đầu tìm được thi thể đó.”
Ngừng một lát, hắn lại hạ thấp giọng: “Trịnh lang quân cùng gia quyến đến núi này, chẳng phải chỉ để tránh nóng, mà vì trong thành yêu quái hoành hành quá dữ, trong nhà lại có một tiểu lang quân cùng hai tiểu nương tử, sợ xảy ra chuyện, nên mới đến đây lánh nạn.”
“Thế ở đây xảy ra chuyện, họ có đi không?”
“Cũng chưa nghe nói, núi này có chuyện, trong thành e cũng chẳng an toàn.”
“Vậy Trịnh lang quân làm nghề gì?”
Đàm Viễn ‘phì’ cười: “Trịnh gia là thế gia đại tộc bậc nhất Kiến Nghiệp, tiền tài tiêu mấy đời chẳng hết, hàng ngàn gia nô cơ nghiệp, ruộng đất thì nhìn chẳng thấy bờ, còn phải làm cái nghề gì nữa.”
“Hắn không làm quan sao?” Trình Hàn Lân lại hỏi.
Nếu là người lớn, hỏi dồn hỏi dập thế này tất sẽ gây nghi ngờ, nhưng lời lẽ trẻ con lại không khiến ai đề phòng. Đàm Viễn giải thích: “Trịnh lang quân quả thật có chức vị trong triều, nhưng địa vị cao quý chẳng cần nhúng tay mấy việc tầm thường, cả ngày nghiên cứu Phật lý, bàn luận huyền đạo.”
“Nhưng mặt Trịnh nương tử thật đáng sợ, lại còn câm nữa, sao Trịnh lang quân chịu cưới nàng?” Trình Hàn Lân tiếp tục gặng hỏi.
Đàm Viễn búng một cái lên trán hắn: “Sư phụ thường dạy gì? ‘Không nên vì sắc mà sinh tâm, cũng đừng vì thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sinh tâm, hãy giữ tâm không vướng mắc vào đâu, từ đó mới khởi được chân tâm.’ Dung mạo thì có gì đáng kể? Huống hồ, vị Trịnh phu nhân kia vốn xuất thân từ họ Cố, tuy môn hộ kém Trịnh thị một bậc, nhưng cũng là đại tộc môn đăng hộ đối.”
Ngừng một lát, hắn nói tiếp: “Nói ra thì, Trịnh lang quân quả thực góa bụa thê tử nhiều năm, vốn chẳng có ý tái hôn. Chẳng ngờ trong một lần khúc thủy lưu thương tao nhã gần chùa chúng ta, gặp được Trịnh nương tử, vì đàn thơ mà kết giao, thành tri kỷ, lại thêm một năm nữa mới thành hôn.”
Trình Hàn Lân thấy sư huynh đang hứng chí bèn thừa cơ hỏi cặn kẽ về người và chuyện trong Trịnh gia, cuối cùng còn chêm một câu: “Sư huynh biết nhiều thật, trong lòng cũng chẳng được thanh tịnh gì cả!”
Đàm Viễn vung cái giỏ lên làm bộ muốn nện hắn: “Tiểu quỷ đầu trọc này!”
Hai người cười giỡn một hồi, Trình Hàn Lân lại hỏi: “Yêu quái kia là từ trong thành bay lên núi sao? Nó có bắt đệ đi không?”
Đàm Viễn xoa đầu hắn: “Đừng sợ, đệ có Phật Tổ phù hộ, đến giờ tụng kinh thì tụng nhiều thêm mấy lần, so với cái gì cũng hữu dụng hơn.”
Trong lòng Trình Hàn Lân hoài nghi, nhưng tất nhiên không nói ra, ôm lấy lấy cây dù hô lớn: “Vậy đệ đi đưa dù cho sư phụ đây!”
“Đi nhanh đi, muộn thì sư phụ lại mắng đệ cho xem.”
Trình Hàn Lân đưa dù đến Phật đường xong, lén quay lại tịnh xá, từ dưới giường lôi ra mấy tờ bùa lén vẽ được và viên ngọc nhãn không rõ công dụng kia, rồi theo đường nhỏ đi thẳng về Bi Điền Phường.
Hải Triều cùng Lục Uyển Anh trở về Bi Điền Phường cùng đám trẻ. Quách nương tử và Liêu mụ mụ đều đi Phật đường để bàn việc về đứa bé kia, chỉ để lại hai tỳ nữ canh chừng bọn trẻ.
Hải Triều muốn dò hỏi thi thể đứa bé được đặt ở đâu, nhưng vì có người canh nên không thể ra ngoài, đành nhẫn nại cùng Lục Uyển Anh vào Giới đường tiếp tục chép kinh.
Chép đến lần thứ ba, ngoài màn mưa bỗng xuất hiện một bóng nâu nhỏ nhắn. Lại gần nhìn kỹ, hóa ra là tiểu hòa thượng Trình Hàn Lân, khoác áo tơi, đội nón đấu.
Trình Hàn Lân đi đến dưới hiên, tháo nón cởi áo tơi, vẩy nước mưa trên người, ngó nghiêng dò xét một hồi, thấy bốn phía yên tĩnh mới bước vào trong.
“Sao huynh lại tới đây?” Hải Triều lập tức bỏ bút xuống.
Trình Hàn Lân hạ giọng: “Ta mang cho hai người mấy lá bùa phòng thân, còn có cả viên ngọc nhãn kia nữa. Trong tịnh xá giấu không tiện, để chỗ các ngươi thì yên ổn hơn.”
Hải Triều đón lấy bùa chú cùng viên ngọc tròn sáng kia. Ngọc nhãn bằng diệu thạch, bên ngoài bọc một vòng thủy tinh trắng, thoạt nhìn chẳng thấy công dụng gì, nàng cẩn thận nhét vào ngực áo. Bùa không nhiều, ngoài vài lá thường dùng như bùa Sư Khoáng, bùa hỏa, bùa lôi, còn có mấy loại Hải Triều chưa từng thấy.
“Cái này là bùa gì?” Hải Triều hỏi.
Trình Hàn Lân nhặt lên một lá: “Loại này ta gọi là bùa Minh Quang. Đốt lên thì hiện một vầng sáng nhỏ, không quá sáng, nhưng bền hơn bùa hỏa, có thể duy trì nửa canh giờ, lại không quá chói mắt, còn có thể giấu trong tay áo.”
Hải Triều và Lục Uyển Anh đều thán phục: “Cái này hữu dụng lắm.”
Giờ bọn họ đều là trẻ con, nến, đèn lồng, đuốc lửa đều khó lấy, ban đêm nếu muốn lén ra ngoài làm việc gì, thì bùa Minh Quang này quả là có thể soi đường.
“Còn cái này?” Hải Triều nhặt một lá khác hỏi.
“Đây là bùa Ẩn Hình, để che mắt người khác…” Trình Hàn Lân ấp a ấp úng đáp.
Đôi mắt Hải Triều sáng rực lên, lá bùa này quả thật có công dụng quá lớn! “Dùng thế nào?” Nàng hỏi.
“Dán lên trán thì người khác sẽ không nhìn thấy ngươi nữa.” Trình Hàn Lân làm một vẻ mặt như đau răng, “Có điều nó có một nhược điểm…”
Hải Triều: “Nhược điểm gì?”
“Nó chỉ ẩn được người, chỉ mình ngươi biến mất thôi.” Trình Hàn Lân gãi đầu, “Tức là, chỉ che giấu thân thể, còn quần áo, giày dép, hay đồ ngươi cầm trên tay thì không ẩn được…”
Hải Triều: “…”
Nghĩa là, người khác tuy chẳng nhìn thấy nàng, nhưng lại thấy cả bộ quần áo đang trôi lơ lửng giữa không trung. Nghĩ ra loại bùa này, cũng phải nói Trình Hàn Lân đúng là kỳ tài.
“Hơn nữa, tác dụng chỉ duy trì được nửa nén hương thôi,” Trình Hàn Lân nói, “Nếu chẳng phải vạn bất đắc dĩ thì tốt nhất đừng dùng…”
Chỉ có nửa nén hương, hiệu quả còn khó mà nói cho rõ, mong sao đừng có lúc nào phải dùng đến, Hải Triều nghĩ vậy, rồi cũng nhét luôn lá bùa bị ghẻ lạnh ấy vào ngực áo.
“Đúng rồi, ta còn nghe ngóng được vài tin.” Trình Hàn Lân đem toàn bộ chuyện vừa hỏi thăm được từ sư huynh kể lại một lượt.
“Cô Hoạch Điểu là loài chim gì vậy?”
Lục Uyển Anh đáp: “Ta từng nghe qua, Cô Hoạch Điểu được ghi trong ‘Huyền Trung Ký’, là một loại yêu quái, còn gọi là Dạ Hành Du Nữ, Câu Hoàng Quỷ hoặc Ẩn Phi Điểu. Yêu này ban đêm bay, ban ngày ẩn, khoác lông thì là chim, rụng lông sẽ biến thành nữ tử. Tương truyền nó chỉ có con mái không có con trống, là từ âm độc hóa thành, không thể sinh con, cho nên đoạt lấy trẻ nhỏ để coi như con của mình…”
Nàng nói được mấy câu, bỗng phát hiện Trình Hàn Lân đang há hốc miệng, ngẩn ngơ nhìn mình, lập tức đỏ mặt, cúi đầu: “Ta múa rìu qua mắt thợ rồi.”
Trình Hàn Lân vội lắc đầu như trống bỏi: “Tại hạ chỉ không ngờ, Lục nương tử cũng thông thạo những chuyện này.”
Lục Uyển Anh mím môi mỉm cười: “Mẫu thân để lại rất nhiều cố thư, trong đó có không ít chí quái truyền kỳ, lúc nhỏ ta thường lén xem.”
Hải Triều không chú ý đến gương mặt đỏ bừng của hắn, nàng đang cúi đầu lấy bút ghi lại mấy điểm chính, chữ nào không biết thì khoanh tròn, hoặc vẽ ký hiệu đơn giản. Nàng không biết “Cô Hoạch” viết thế nào, bèn sơ sài vẽ một con chim.
Trình Hàn Lân ghé lại nhìn, trêu: “Hải Triều muội muội vẽ cái này là gà à?”
Hải Triều chẳng thèm để ý: “Thế còn mấy vết máu trên y phục là sao?”
Lần này đến lượt Trình Hàn Lân giải thích: “Tương truyền Cô Hoạch Điểu vừa ý đứa nhỏ nào sẽ dùng máu điểm lên áo nó để làm dấu. Điểm rồi thì sẽ đến lấy mạng nó, sau khi đứa nhỏ chết thì biến thành con của quái vật.”
Hải Triều cắn bút, nhíu mày: “Có ai từng tận mắt thấy con yêu điểu đó chưa?”
Trình Hàn Lân lắc đầu: “Nghe Đàm Viễn sư huynh nói, chưa từng ai thấy. Chỉ là chuyện vết máu, chuyện trẻ con mất tích, đều trùng khớp với truyền thuyết về Cô Hoạch Điểu, cho nên mới có lời đồn.”
Hải Triều: “Vậy thì cũng chưa chắc đã là yêu quái ấy rồi…”
Nàng vò đầu: “Giá mà Tiểu Dạ ở đây thì tốt.”
“Vốn ta định đi đưa cơm chiều cho Tử Minh, nhưng sư phụ lại sai việc khác, nói sẽ có tăng lo bếp núc mang đi. Sư phụ hung lắm, chẳng ai dám trái lời.” Trình Hàn Lân lại nói.
“Không sao.” Hải Triều giơ tờ trúc giấy lên thổi khô mực: “Ta sẽ tìm cơ hội đi gặp hắn.” Nàng ngừng một thoáng: “Huynh có biết thi thể đứa bé kia để ở đâu không?”
Trình Hàn Lân cầm bút, chấm mực, vẽ một tấm sơ đồ đơn giản, khoanh ra một chỗ: “Thi thể đặt ở Phật đường. Ta vốn muốn đi nhìn thử nhưng trong sân ấy người qua kẻ lại đông lắm, ta còn chưa đến cửa thì đã bị một sư thúc lôi ra.”
Hắn dừng lại, rồi hạ giọng: “Nghe Đàm Viễn sư huynh nói, vốn dĩ Trịnh lang quân định hôm nay cho người đưa thi thể về thành Kiến Nghiệp, báo quan phủ gọi ngỗ tác đến khám nghiệm. Nhưng chẳng may mưa lớn, nên bị trì hoãn. Đợi ngày mai trời quang đường khô thì sẽ khởi hành. Nếu muốn xem thi thể, chỉ có đêm nay là cơ hội. Ta với hơn chục sư huynh cùng ở một gian tịnh xá, e là rất khó thoát ra.”
Hải Triều gật đầu: “Ta biết rồi, huynh mau về đi, kẻo bị người ta trông thấy lại nghi ngờ.”
Đợi hắn rời đi, hai người lại chép thêm một lúc. Ngoài kia mưa cuối cùng cũng dứt, khi mây tan để lộ trời quang đã là xế chiều.
Mùa hạ Giang Nam, núi non cỏ cây xanh ngát, mưa tạnh lại càng thêm ẩm mượt, nắng chiều chiếu xuống, khói sương mờ mịt như phủ một tầng lụa xanh.
Liêu mụ mụ tuy từng hăm dọa “chép không xong thì đừng hòng ngủ”, nhưng Bi Điền Phường vừa xảy ra chuyện lớn, bà ta còn lo chưa xong, tất nhiên chẳng có tâm trí mà quản bọn trẻ nữa.
Hai người cùng đám trẻ dùng xong bữa tối, lại theo các tăng nhân tụng khóa, rồi rửa mặt lên giường rất sớm.
Tuy rằng ở Bi Điền Phường mới có một đứa trẻ gặp chuyện, nhưng trông coi bọn họ vẫn chỉ có một nha hoàn áo xanh bên cạnh Quách nương tử. Dù sao thì nhà họ Trịnh còn có ba đứa con, đó mới là kim tôn ngọc quý, tuyệt đối không thể để xảy ra sơ suất, so ra thì những kẻ nghèo hèn, không cha không mẹ như bọn cô nhi này chẳng đáng mấy phần quý trọng.
Cho nên, mặc dù Trịnh gia mang theo không ít gia nhân nô bộc, người của Chiêu Minh tự và Bi Điền Phường rốt cuộc vẫn đều tập trung bảo hộ mấy đứa trẻ kia.
Tuy trong lòng Hải Triều bất bình thay đám cô nhi, nhưng cũng thầm mừng vì chẳng ai để ý tới bọn họ, nhờ thế mà hành động ban đêm của nàng được thuận tiện.
Đêm núi buông xuống bất chợt, giây trước vẫn còn chút ánh sáng, thoắt cái đã tối đen đến mức giơ tay không thấy năm ngón. Chung quanh từng nhịp ngáy vang lên nối tiếp, bọn trẻ gần như đều ngủ say.
Nha hoàn kia ngồi gác bên ngọn đèn dầu, chẳng mấy chốc cũng ngáp liên tục, đầu gật gà gật gù, chẳng bao lâu thì lăn ra ngủ mất.
Hải Triều khẽ đưa mu bàn tay chạm vào tay Lục Uyển Anh.
Lục Uyển Anh ghé tai nàng, thì thầm bằng hơi thở: “Hải Triều, sao vậy?”
“Ta muốn lén ra ngoài một chuyến.”
“Có phải vì lo cho Lương công tử?”
Hải Triều bỗng nóng bừng hai má, may mà trong phòng u tối, Lục tỷ tỷ không trông thấy.
“Ta muốn đi xem thi thể đứa trẻ kia.” Nàng lí nhí, “Nhân tiện xem bệnh tình của hắn có đỡ hơn không…”
Lục Uyển Anh nói: “Ta đi cùng muội để khám nghiệm thì hơn.”
“Ta đi một mình là được rồi,” Hải Triều đáp, “Hai người cùng đi dễ bị phát hiện. Với lại, nếu nha hoàn kia tỉnh dậy phát hiện ta không có trong phòng, tỷ còn có thể che chở giúp ta.”
Lục Uyển Anh do dự một lát, rốt cuộc vẫn gật đầu: “Hải Triều, muội nhất định phải cẩn thận.”
“Yên tâm đi, ta có bùa của Trình Hàn Lân đây!”
Dù không mấy tác dụng, nhưng có còn hơn không!
Hải Triều rón rén chui ra khỏi chăn, lấy mấy món được Trịnh phu nhân ban thưởng ban ngày mà nàng chưa dám ăn, gói lại trong khăn sạch nhét vào ngực áo, rồi nhẹ nhàng mở then cửa lẻn đi. Lục Uyển Anh lập tức kéo then cửa lại, rồi trở về nằm xuống.
Ra khỏi Bi Điền Phường, Hải Triều theo lộ trình đã ghi nhớ ban ngày mà đến tiểu Phật đường nơi cất giữ thi thể, thử đẩy cửa thì quả nhiên khóa chặt.
May thay phía sau còn có một cửa sổ khép hờ.
Cửa sổ hơi cao, nhưng không làm khó được nàng.
Hải Triều chẳng tốn bao sức đã leo vào trong, lấy một ngọn đèn trường minh trên Phật đài, bước đến gần quan sát thi thể Lâm Tam Lang.
Thi thể non nớt của đứa bé nằm trên tấm ván, từ đầu đến chân phủ bằng tấm vải trắng, máu dưới lớp vải loang ra, phác thành bóng dáng người mơ hồ.
Dù từng nhiều lần thấy tử thi các loại, nhưng bảo không sợ hãi thì là dối mình.
Hải Triều cố trấn định hô hấp, cắn răng lật tấm vải trắng lên.
Thi thể đã bị dã thú trên núi cắn xé, chân tay tứ tán, khuôn mặt hủy hoại, vài chỗ lộ cả xương trắng lẫn hàm răng, nhìn vừa kinh hãi vừa xót xa.
Nàng đang định tìm dấu vết máu trên áo, bỗng nghe dưới hành lang bên ngoài vang lên tiếng bước chân “phành phạch”.
Giờ này lại có người đến! Hải Triều kinh hoảng, luống cuống phủ tấm vải trắng lại, đang muốn đặt lại ngọn đèn lên Phật đài, thì “cạch” một tiếng, người ngoài đã dùng chìa khóa mở cửa.
Không kịp trả đèn về chỗ, Hải Triều quyết định trong chớp mắt, ôm đèn nép sau pho tượng cúng dường cạnh pho Phật, vừa lúc cánh cửa kêu “kẽo kẹt” mở ra, nàng đã kịp tắt lửa đèn.
Từ sau tượng, nàng len lén nhìn ra, thấy một người bước qua bậc cửa, trong tay xách đèn lồng, ánh sáng chiếu rọi một gương mặt tuấn mỹ.
Hải Triều bất giác kinh ngạc, sao lại là hắn?
***