Chương 11: Tòa nhà ăn thịt người (8)
***
“Lão nô chỉ là kẻ hầu hạ, quanh năm tuân thủ bổn phận, thì có thể làm chuyện gì trái lương tâm được chứ?” Lý quản sự cố gắng nặn ra một nụ cười như không có gì, nhưng môi đã run lên không thể khống chế.
Trình đạo sĩ nói: “Chẳng hạn như từng hại ai đó, hay đối xử tệ bạc với người nào, nhất là… người đã chết.”
“Dĩ nhiên là không rồi.” Lý quản sự vội vàng cướp lời, “Lão nô nhát gan như chuột, giết gà còn chẳng dám, nói gì đến hại người. Tiên sư chớ lấy lão nô ra mà đùa…”
Trình đạo sĩ lắc đầu thở dài: “Bần đạo thấy khí đen lượn lờ giữa hai chân mày ông, là oán khí vương vấn, nếu không trừ sạch thì e là tính mạng khó giữ, mới nhiều lời nhắc nhở vài câu.”
Hắn cười khổ: “Chẳng trách sư đệ ta cứ trách ta lo chuyện bao đồng, tự rước họa vào thân, gánh lấy nhân quả mà chẳng được ai cảm kích… Thôi thì thôi vậy…”
Nói rồi bèn phất tay áo định bỏ đi.
Lý quản sự nghe đến đây nào còn dám để hắn đi, quýnh quáng níu lấy vạt áo hắn: “Tiên sư xin dừng bước… xin tiên sư cứu mạng lão nô…”
Trình đạo sĩ quay đầu lại: “Nói như vậy, quả là ông từng làm chuyện thất đức?”
Lý quản sự ấp úng: “Không dám dối tiên sư lão nô nhát gan sợ chuyện, những việc thương thiên hại lý thì thật sự không dám làm, chỉ là… mấy năm trước đúng là có lỗi với người ta… biết đâu bị người ta oán thán mà thành ra thế này… Nhưng lão nô tuyệt đối chưa từng hại ai, tội không đến mức chết mà…”
Trình đạo sĩ gật đầu: “Quỷ là do oán khí hóa thành, chỉ biết báo thù, đã gọi là báo thù thì sao lại giảng đạo lý với ông, càng không có chuyện xét xử công bằng gì cả. Nay oan hồn kia đã bám lấy ông, oán khí sâu dày, xem chừng là không chết không thôi…”
Hai chân Lý quản sự mềm nhũn, lập tức quỳ rạp xuống đất: “Xin tiên sư chỉ cho lão nô một con đường sống…”
Trình đạo sĩ do dự một lúc, cuối cùng cũng không cầm lòng được trước lời cầu khẩn không ngớt, từ trong tay áo lấy ra một lá bùa đưa cho ông ta: “Hãy giữ lấy bùa trừ tà này bên mình, đừng để thất lạc.”
Lý quản sự như nắm được cọng rơm cứu mạng, gật đầu lia lịa: “Được, được!”
Trình đạo sĩ lại nói: “Bùa chú chỉ tạm bảo toàn tính mạng, chứ không trị tận gốc. Oan hồn ấy oán niệm quá sâu, xem ra không dễ gì buông tha cho ông đâu.”
Sắc mặt Lý quản sự lập tức xám xịt như tro tàn: “Vậy… vậy phải làm sao mới được… xin tiên sư thương xót, cứu giúp lão nô, lão nô nhất định ăn chay niệm Phật, lập bài vị trường sinh cho tiên sư, ngày ngày dập đầu khấn vái…”
Trình đạo sĩ ra vẻ bất đắc dĩ: “Bần đạo đâu phải vì mấy thứ đó… thôi được, trong phủ có để lại vật gì của người đó không?”
Lý quản sự lắc đầu, mơ hồ nói: “Không để lại gì cả…”
Trình đạo sĩ nói: “Có vật cũ là tốt nhất, nếu không cũng không sao. Về nhà, ông dùng tơ lụa cắt thành hình người, viết tên họ, năm sinh tháng đẻ của người đó, rồi để cùng lá bùa ta đưa vào túi gấm đỏ.
“Sau đó chuẩn bị ít giấy tiền vàng bạc, hương nến, đêm nay…”
Hắn nheo mắt lại, bấm ngón tay tính toán, lẩm bẩm trong miệng, một lát sau mới nói: “Đêm nay giờ Dần khắc tư*, tìm một nơi vắng vẻ ở hướng Tây Bắc mà đốt đi. Vừa đốt vừa quỳ lạy, thành tâm sám hối với oan hồn kia, cầu xin tha thứ. Cuối cùng đốt cả túi gấm, may ra có thể hóa giải được oán thù.
“Sau này mỗi dịp bốn mùa tám tiết, đừng quên cúng tế hồn người đã khuất. Ngày thường cũng nên làm nhiều việc thiện, tránh xa thị phi, chớ tổn âm đức.”
Lý quản sự cẩn thận nhét lá bùa vào trong ngực áo, cất kỹ: “Đương nhiên, đương nhiên… lão nô nhát gan như chuột, sao dám làm chuyện xấu.”
Trình đạo sĩ mỉm cười: “Phúc sinh vô lượng thiên tôn. Mong rằng Lý cư sĩ hóa hung thành cát, bình an vượt qua tai kiếp.”
Lý quản sự khom người tiễn hắn, đợi hắn đi xa rồi mới lôi khăn tay ra lau mồ hôi trên trán.
Nghe lời đạo sĩ họ Trình, nhất định phải nhanh chóng cúng tế mới được. Nhưng phủ vừa xảy ra chuyện, người nhiều mắt tạp, muốn tránh tai mắt không dễ, nếu để Tô Đình Viễn nghe được… vừa rồi hắn mới cảnh cáo ông, biết chuyện thì thế nào cũng nổi giận một trận nữa, phải tìm một nơi kín đáo mới được.
Ông ta quay đầu nhìn về hướng hậu hoa viên, qua những bức tường dày đặc có thể thấy lùm cây tối om trong vườn lay nhẹ trong gió. Ngày thường nhìn quen không thấy gì lạ, nhưng giờ nhìn lại, bỗng như từng bóng ma chập chờn hiện lên trong tán lá.
Lý quản sự nuốt nước bọt, trong lòng râm ran sợ hãi.
Ông sờ lên ngực, không biết có phải do bùa trừ tà phát huy tác dụng hay không, mà như có một luồng hơi ấm xuyên qua lớp áo truyền đến lòng bàn tay, khiến lòng dịu lại phần nào.
Suy cho cùng cũng không phải ông là đầu sỏ, Lý quản sự nghĩ thầm, nếu oan hồn tìm ai, hẳn không nên tìm ông đầu tiên…
Vừa nghĩ, ông ta vừa men theo đường mòn lát trúc mà đi. Khi cơn căng thẳng lắng xuống, ông mới cảm thấy rõ chân mình như đổ chì, cả lưng lẫn eo cũng đau nhức rã rời.
Già rồi, giữa đêm khuya còn chạy ngược chạy xuôi, cả người như muốn rã ra, phải tranh thủ lúc trời chưa sáng mà về nằm nghỉ một chút.
Chẳng bao lâu đã đến ngã ba, rẽ thẳng qua dãy nhà khách là có thể đi đường tắt về khu nhà của hạ nhân, còn ngã rẽ bên phải dẫn đến hậu hoa viên.
Lý quản sự cất bước đi thẳng, chẳng hiểu sao, mồ hôi lạnh bắt đầu túa ra sau lưng, tim như treo lơ lửng, luôn có cảm giác phía sau có thứ gì đang bám theo.
Ông rảo bước, đi đến cuối rừng trúc, cây cối ngày một thưa dần, mây tản ra, trăng sáng như nước đổ xuống, soi rõ vạn vật, cảm giác có vật gì phía sau càng lúc càng rõ.
Không nhịn được nữa, ông cắn răng, bất ngờ quay phắt đầu lại, trống không.
Ông thở hắt ra một hơi, đưa tay lau mặt, đang định tiếp tục bước đi thì đột nhiên, trong tầm mắt lướt qua mặt đất, ông thấy… có gì đó bất thường.
Ông căng mắt nhìn kỹ, hoảng hốt đến mức ngã ngồi phệt xuống đất.
Vừa rồi rõ ràng ông thấy xung quanh chỉ có mỗi mình, thế mà bóng dưới ánh trăng, lại có đến hai cái.
Lý quản sự lập tức lồm cồm bò dậy, nào dám chờ đến trời sáng, lao thẳng đến nhà kho. May thay dạo này trong phủ xảy ra nhiều chuyện kỳ quái, thứ không thiếu nhất chính là hương nến vàng mã.
…
Lương Dạ cầm đèn đi phía trước, bóng người cao ráo hơi gầy gò, khoác trên vai một tầng sương bạc, ánh sáng từ lồng đèn lẫn vào trong bóng tối.
Hải Triều chẳng nói chẳng rằng, lặng lẽ tụt lại phía sau.
Lương Dạ bị thương ở chân, vốn đã đi chậm, lại còn thỉnh thoảng dừng bước quay lại chờ nàng. Mà Hải Triều tính nóng nảy, kiên nhẫn cạn dần, liền sải bước đi tới, ngáp một cái rồi nói: “Đi nhanh chút coi, còn lề mề nữa thì trời sáng mất, còn ngủ nghê gì được?”
Khóe môi Lương Dạ thấp thoáng một nụ cười nhạt, sánh vai đi cùng nàng: “Vừa nãy có sợ không?”
Hải Triều nhướng mày: “Có gì mà sợ?”
Lương Dạ nói: “Trước kia nàng sợ mấy thứ này nhất, cũng sợ bóng tối.”
Tim Hải Triều bỗng dưng trống trải, miệng hơi đắng: “Trước kia là trước kia.”
Nàng vén tóc: “Ở một mình quen rồi.”
Lúc mẫu thân nàng mới mất, ban đêm nàng ngủ không yên, tỉnh giấc giữa bóng tối đặc quánh, những bóng đồ vật trong phòng như hóa thành yêu ma giương nanh múa vuốt. Hễ có chút động tĩnh là nàng co rúm lại, sợ đến phát run, chỉ sợ bị quỷ bắt đi.
Lương Dạ phải ngủ dưới đất cạnh nàng, mấy năm liền. Mãi đến năm nàng mười ba tuổi, Lương Dạ rời thôn lên châu học đường học, nàng dẫu còn sợ, cũng chỉ có thể tự mình gồng gánh.
“Xin lỗi,” Lương Dạ khẽ nói.
“Có gì phải xin lỗi.” Hải Triều cười nhạt, tỏ vẻ không sao, “Ngươi có tiền đồ sáng lạn, trái lại còn bị ta làm lỡ mấy năm.”
Lương Dạ thông minh xuất chúng, tuy mẹ hắn không cho học chữ đọc sách, nhưng hắn vẫn lén học, không chỉ biết đọc, còn tập làm thơ.
Khi mới mười mấy tuổi, có một thương nhân buôn ngọc tình cờ đọc được thơ hắn, kinh ngạc không thôi, liền mua cả chồng thơ lẫn ngọc trai mang về châu thành. Tên tuổi thần đồng của Lương Dạ cứ thế mà lan xa.
Đúng lúc ấy, Đỗ thượng thư bị giáng chức làm Thứ sử ở Lĩnh Nam, đọc được thơ hắn xong liền cử người về làng tìm, muốn tiến cử hắn vào châu học. Vậy mà hắn lại từ chối thẳng thừng.
Sau này Hải Triều nghĩ lại, có lẽ lúc đó hắn cũng muốn đi, chỉ vì trước khi chết mẹ nàng đã gửi gắm nàng cho hắn, nên hắn đành gác lại.
Đợi đến khi nàng “trưởng thành”, đến tuổi có thể xuống biển mò ngọc, hắn lập tức rời đi, không quay đầu lại.
“May mà ngươi thi một lượt đã đậu.” Hải Triều biết không trách được hắn, nhưng trong lòng vẫn chua xót, “Bằng không ta gánh tội lớn rồi.”
Nàng liếc sang Lương Dạ, thấy nét cười trên mặt hắn đã biến mất, ánh mắt cũng trở nên u tối, chợt thấy bản thân thật vô vị, đã bảo là buông bỏ rồi, lại còn lôi chuyện cũ ra làm gì?
“Chuyện cũ rích rồi, nhắc làm gì nữa. Lo đối phó chuyện trước mắt đi, thoát khỏi đây càng sớm càng tốt.”
Ra ngoài rồi, hắn làm quan lớn của hắn, nàng đi đánh cá của nàng, đời này khỏi gặp lại nhau nữa, như vậy mới dứt khoát.
Lương Dạ trầm ngâm một lát: “Ra ngoài rồi hẵng tính.”
Hai người im lặng đi tiếp, không ai nói gì nữa.
Đi khoảng nửa khắc đồng hồ, Hải Triều chợt nhận ra đây không phải đường về khách xá.
“Chúng ta…” Nàng vội sửa lời, đổi giọng: “Ngươi định đi đâu vậy?”
Lương Dạ đáp: “Thư phòng của Tô Đình Viễn.”
Không phải đi tróc quỷ sao? Đến thư phòng làm gì? Trong lòng Hải Triều đầy nghi hoặc, nhưng lại sợ lộ vẻ tò mò, nên cố nhịn không hỏi.
Lại đi thêm chừng nửa khắc nữa, đến tiền viện.
Chính viện đóng cửa kín mít, bên trong tối đen như mực, chỉ có đèn gió trên hành lang phát ra ánh sáng vàng vọt.
Đến cửa thư phòng, Hải Triều đẩy thử, khóa rồi.
Nàng lại kiểm tra cửa sổ, phát hiện cửa chưa gài then. Khung cửa không lớn, nhưng thân hình nàng nhỏ nhắn, chui qua thừa sức.
Chưa đợi Lương Dạ mở miệng, nàng đã leo lên một cây quế trước cửa sổ, mượn lực một cái, nhẹ nhàng như không mà chui thẳng vào trong, rồi mở then cửa cho Lương Dạ vào.
Trong phòng tối om, chỉ có một chiếc đèn lồng soi sáng, Lương Dạ lấy lửa từ đèn lồng châm ngọn đèn dầu trên án thư.
Ánh sáng trong phòng dần bừng lên. Hải Triều đảo mắt nhìn quanh, thấy ba mặt tường kê đầy giá sách, từng tầng từng lớp chất kín thư quyển, trông chẳng khác gì một hiệu sách nhỏ trong nhà.
Hải Triều thoáng kinh ngạc: “Hắn chỉ là một kẻ buôn bán, vậy mà lại có nhiều sách thế này!”
Nói đoạn, nàng nhón lấy một cuộn sách có treo thẻ ngà, chậm rãi đọc từng chữ: “Bạch, Hổ, Thông… là sách nói về mãnh thú à?”
Khóe môi Lương Dạ khẽ cong: “Là vào thời Hán Chương Đế, một nhóm học giả, y sĩ, nho sinh đến Bạch Hổ quán biện luận kinh nghĩa, sau đó được chép lại thành sách.”
Hải Triều nghe mà ngáp vặt: “Một kẻ làm ăn thì đọc loại sách này làm gì? Đa phần là mua về để trưng thôi.”
Lương Dạ rút ra hai quyển, giở thử xem. Hải Triều ghé đầu lại gần, thấy bên trên dày đặc những hàng chữ son nhỏ li ti, nét chữ đoan trang thanh tú.
Hải Triều nói: “Chắc là sách cũ người ta từng dùng rồi.”
“Cũng có thể.” Lương Dạ cuộn sách lại đặt về chỗ cũ, đổi sang một giá khác, lật thêm mấy quyển, giá này chủ yếu toàn thi từ phú lục.
Hải Triều thấy hắn hết lật đông đến xem tây, chẳng có quy củ gì, bèn chán nản dùng tay nghịch ngọn lửa đèn, đùa chơi cho qua chuyện.
Lương Dạ đảo qua hết các giá sách, lại đến bên án mở hòm, rút ra mấy quyển sổ sách xem lướt qua, sau đó cẩn thận đặt lại như cũ, mới xách đèn lên: “Đi thôi.”
“Thứ ngươi muốn tìm đâu?”
“Đã tìm được rồi.”
Hải Triều hơi lấy làm lạ, nhưng thấy hắn không chủ động nói, nàng cũng không hỏi, để hắn ra cửa trước, cài lại then, còn mình thì vẫn chui ra theo lối cửa sổ.
Rời khỏi chính viện, Lương Dạ cũng không lập tức quay về, mà cứ đủng đỉnh đi vòng vèo, như thể muốn dạo khắp Tô phủ một lượt. Thỉnh thoảng gặp người hầu tuần đêm, bọn họ thấy hắn mặc đạo bào, phong thái thanh nhã, cũng chẳng dám hỏi nhiều.
Hai người đi lại thong dong, băng qua tiền sảnh sau chính viện, rồi rẽ về phía tây, đi qua một cánh cổng nhỏ, đến một nơi cỏ cây tươi tốt.
Dường như đây là một khu vườn hoa nhỏ, trong không khí tràn ngập hương quế, nồng đến mức như có thể lấp kín mũi miệng. Cành lá cây quế đan nhau che khuất mái hiên và bóng những gian phòng.
Rõ ràng vườn này đã bị bỏ hoang khá lâu, cỏ dại mọc cao đến nỗi gần như nhấn chìm cả con đường đá xanh nhỏ hẹp.
Lương Dạ men theo lối nhỏ bước đi, vừa đi vừa xách đèn chiếu chỗ này, rọi chỗ kia, đi mãi đến một sân nhỏ.
Sân ấy nay đã hóa thành biển cỏ hoang, gió thổi qua, đám cỏ đổ rạp, từng lớp từng lớp lăn tăn như sóng vỗ bập bềnh.
Hai người lội qua biển cỏ, đi đến trước cửa gian nhà. Lương Dạ giơ đèn lồng lên soi, chỉ thấy cửa phòng không chỉ bị khóa, mà khe cửa còn dán một tờ phù giấy vàng, phù văn bằng chu sa đỏ như máu tươi.
Trong lòng Hải Triều, những nghi ngờ vốn đã trỗi dậy nay lại như bột nở gặp nước, càng lúc càng phồng lên, cuối cùng nhịn không được mà hỏi: “Đây là nơi nào?”
Lương Dạ đáp: “Tây viên, chỗ xảy ra chuyện với lão mã phu.”
“Sao ngươi biết là chỗ này?”
“Khi nãy trong thư phòng của Tô Đình Viễn, ta thấy bản đồ toàn bộ phủ, dọc đường đi đến đây, chỉ có viện này là giống nhất. Thấy bùa chú dán trên cửa, thì càng chắc chắn rồi.”
Hải Triều nhớ đến lời Lý quản sự nói, không khỏi rùng mình một cái.
Lão mã phu nọ từng đánh cược với đám hạ nhân, dám ở lại một đêm trong căn phòng bị đồn có ma, kết quả sáng ra thì hóa điên, miệng chỉ còn lặp đi lặp lại một chữ: “Mặt”.
Tối hôm ấy rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Ông ta đã thấy thứ gì? Cái “mặt” mà ông ta nhắc đến, có phải là thứ mà Trình Hàn Lân từng nhìn thấy?
Ban ngày nghe kể thì còn đỡ, nhưng giờ đêm khuya khoắt mà phải đến tận nơi xảy ra chuyện, Hải Triều nổi hết cả da gà trên cánh tay.
Lương Dạ lại như chẳng mảy may cảm giác gì, giơ đèn soi kỹ ổ khóa và phù chú, thậm chí còn đưa tay sờ thử.
Hải Triều càng thấy tê rần cả da đầu.
“Đi thôi.” Lương Dạ nói.
Hải Triều như nghe thấy tiếng trời. Nếu Lương Dạ mà đòi vào trong xem thử, nàng cũng chỉ đành cắn răng bước theo.
Ra khỏi viện xá tiêu điều quái dị ấy, Hải Triều vô thức bước nhanh hơn vài phần. Mãi đến khi mùi hương quế nồng nặc bị bỏ lại phía sau, nàng mới thở phào nhẹ nhõm.
“Nàng thấy phu thê họ Tô thế nào?” Lương Dạ bỗng lên tiếng.
Hải Triều lại nhớ đến ánh mắt khi nãy hắn nhìn Tô phu nhân, sắc mặt lập tức sa sầm: “Ta đâu biết gì. Ta ăn nói lỗ mãng, chỉ là nha đầu không hiểu chuyện, biết được gì mà nhận xét.”
Lương Dạ nghiêng đầu nhìn nàng: “Giận à?”
“Có chó mới giận!” Hải Triều như con mèo bị giẫm phải đuôi, đột nhiên quẳng hết mấy lời dặn dò bản thân ban nãy lên chín tầng mây.
“Thế thì tốt.” Lương Dạ thu ánh mắt về, thản nhiên đáp.
Hải Triều: “…”
Càng giận!
***
Tinh Nguyệt: Eeee, ta hiểu cái cảm giác của chị Hải Triều nha, cãi nhau kêu không giận xong bạn trai bảo “thế thì tốt” =))))