Chương 34
***
Bộ trường sam cũ vấy máu trước đó đã được thay ra, nhưng sắc mặt hắn lại càng thêm tái nhợt, giữa chân mày khẽ nhíu, tầng bệnh khí vốn mơ hồ phảng phất kia, nay lại hiện lên rõ rệt.
Trên phố người qua kẻ lại không ít, hắn chỉ chăm chú bước đi, hoàn toàn không chú ý đến cảnh vật xung quanh.
Chu Mãn đứng từ xa dõi theo hắn, nhìn càng lâu, mày càng nhíu chặt: Tên ốm yếu này không nằm trong y quán tĩnh dưỡng, lại định đi đâu nữa?
Diệu Hoan Hỉ cũng trông thấy vết thương ở thái dương của Vương Thứ, bèn lẩm bẩm: “Dạo này là thế nào vậy? Thần giữ cửa phải của Tham Kiếm Đường thì suýt bị người ta rạch cổ, giờ đến cả kiếm thủ đứng ngoài cửa cũng bị đánh vỡ đầu? Có trò gì hay mà ta lại bỏ lỡ không?”
Chu Mãn liếc nàng một cái, đáp: “Cũng náo nhiệt lắm.”
Y quán suýt nữa thì bị người ta đập nát, chẳng náo nhiệt sao được?
Chu Mãn tự nhận mình không phải hạng người chuyện gì cũng muốn nhúng tay, chỉ là đêm qua nàng mang thương đến, dùng thuốc do Nê Bồ Tát kê, lại còn tá túc ở Bệnh Mai Quán, xét thế nào cũng là đã nhận ơn của người ta.
Nếu thật sự là Nê Bồ Tát kê sai thuốc, hắn bị mắng bị đánh cũng là đáng đời.
Cho nên lúc ban đầu nàng chỉ đứng ngoài xem, không nhúng tay can dự.
Nhưng sau đó đã lần theo manh mối mà tra ra được chân tướng sự việc, há lại có thể khoanh tay đứng nhìn?
Nào ngờ gã tượng đất ấy chẳng những không biết ơn, ngược lại còn quay ra trách móc nàng.
Chu Mãn nào từng phải chịu uất ức như vậy?
Lúc này trông thấy vị Bồ Tát ấy tay xách giỏ, mặt mũi bệnh hoạn, chẳng rõ lại định đi đâu, nàng vốn không định quan tâm, chỉ cười khẽ một tiếng, tiếp tục uống rượu.
Chỉ là vừa cúi đầu xuống, trong đầu lại chợt hiện lên câu nói vừa vội vàng vừa tức giận của Nê Bồ Tát: “Mạng người là chuyện trọng đại, sao ngươi có thể nói hươu nói vượn như vậy!”
Ly rượu trước mặt, không hiểu sao lại chẳng còn uống nổi nữa.
Diệu Hoan Hỉ nhìn nàng: “Sao không uống nữa?”
Chu Mãn nhìn theo bóng dáng đã sắp bị dòng người trên phố nuốt mất kia, trầm ngâm một lúc, cuối cùng chậm rãi đặt chén xuống, rồi nói: “Ta đi xem một chút.”
Nói rồi cũng chẳng buồn giải thích thêm gì, xoay người xuống lầu.
Nê Bồ Tát một đường đi tới, rồi rẽ vào một con ngõ nhỏ âm u ven phố.
Chu Mãn lặng lẽ đi theo phía sau.
Ngõ ấy vô cùng tồi tàn, chẳng có bao nhiêu nhà cửa, đi đến tận cùng mới thấy một cánh cửa gỗ cũ kỹ, mục nát, hai cánh nghiêng vẹo như sắp sập. Không xa đó có một con chó vàng gầy trơ xương nằm bẹp, lười biếng, thấy người cũng chẳng buồn sủa.
Vương Thứ đứng ngoài cửa, do dự một thoáng, cuối cùng vẫn tiến lên gõ cửa.
Sân trong còn thê lương hơn cả con ngõ ngoài kia. Trong sân cắm vài cây sào tre phơi quần áo, trên đó là mấy bộ đồ trẻ con mới giặt xong, còn đang nhỏ nước tí tách.
Dưới mái hiên, Dương thị ngồi trên một chiếc ghế đẩu thấp, lặng lẽ nhìn ngắm mấy bộ y phục ấy.
Ánh trời sáng chói, rọi vào mắt nàng, vậy mà lại chẳng soi được chút thần sắc nào.
Nhìn một lúc, nàng lặng lẽ dời ánh mắt đi, bước vào gian bếp có tường đen thẫm vì khói bếp tích lâu năm, cầm lấy con dao thái rau đặt trên bệ. Rồi nàng trông thấy trên đống củi bên cạnh có một bó ngải tiên màu tím nhạt.
Đó là bó ngải nàng vừa hái sáng nay, khi lên núi.
A Bảo đã bệnh liệt giường mấy ngày, chẳng thể ra ngoài chơi. Khi xuống núi, nàng thấy bụi hoa bên đường nở rất đẹp, bèn bẻ một bó đem về, định làm A Bảo vui.
Thế nhưng, chính là bó ngải này…
Dương thị chậm rãi đặt dao xuống, cúi người nhặt lấy bó ngải tiên kia, bên tai chợt vang lên tiếng nói của cô nương giọng nhẹ ở Bệnh Mai quán: “Là chính nàng ta hại chết đứa con của mình, lại còn chẳng hay biết…”
Những ngón tay vốn thô ráp do quanh năm lao động của nàng, chợt khẽ run lên một cái.
Ngay bên cạnh là lò thuốc nàng dùng sắc thuốc cho A Bảo, còn treo đó một gói thuốc chưa sắc hết.
Dương thị đi tới, nhóm lửa, mở gói thuốc, đổ dược thảo vào nồi, thêm nước, rồi cũng thả luôn bó ngải tiên kia vào cùng.
Lửa cháy trong lò, nước sôi trong nồi, từng làn hương thuốc thanh đạm đắng dịu dần dần bốc lên.
“Cộc, cộc.”
Bên ngoài đột nhiên vang lên tiếng gõ cửa.
Dương thị chỉ lặng lẽ nhìn chằm chằm vào nồi thuốc, không hề động đậy.
Thế nhưng người ngoài cửa nhanh chóng lên tiếng: “Dương tẩu, tẩy có nhà không?”
Dương thị nhận ra được giọng người kia, song vẫn không có phản ứng.
Mãi đến khi giọng nói kia lại vang lên: “A Bảo để quên mấy món ở quán, ta nghĩ nên mang đến trả cho tẩu.”
Thân thể Dương thị cuối cùng cũng khẽ run lên, quay đầu nhìn về phía cánh cửa.
Qua khe hở cánh cửa mục nát, thấp thoáng có thể trông thấy bóng dáng vị đại phu có lòng tốt kia.
Nàng nhìn một lúc, sau đó lấy chiếc quạt nan cũ rách bên cạnh, che lên nồi thuốc đang đun, rồi mới chầm chậm bước tới mở cửa.
Vương Thứ xách giỏ, đã đứng ngoài đợi được một lúc.
Cửa vừa mở, hắn lập tức nhìn về phía Dương thị.
Trước đó khi Dương thị rời khỏi y quán, hắn đã sai người đi tìm. Không ngờ, Dương thị không đi đâu xa, hàng xóm láng giềng lập tức phát hiện nàng vẫn ở trong nhà. Họ nói, khi ấy nàng đang giặt đồ, ngoài việc vẻ mặt thất thần thì cũng không có gì quá khác thường, không giống người có ý tìm đến cái chết.
Lúc này nhìn lại, dường như quả đúng như lời mọi người nói.
Ngoài ánh mắt có phần trì độn ra, Dương thị trông vẫn xem như bình tĩnh, song nàng cũng không mời hắn vào trong, chỉ khẽ gọi một tiếng: “Vương đại phu.”
Vương Thứ ngửi thấy một chút mùi thuốc thanh đạm thoảng qua, liếc mắt nhìn ra sau nàng, không thấy nồi thuốc đâu, chỉ trông thấy chiếc quạt nan che lò sắc thuốc lại.
Hắn trầm ngâm một lát, rồi lấy ra hai gói thuốc trong giỏ, đưa cho Dương thị, khẽ nói: “Loại thuốc này có thể giảm ho, chữa trị bệnh khí nghẽn, là ta kê riêng cho tẩu.”
Dương thị đón lấy gói thuốc, vành mắt đã đỏ hoe: “Là ta hại chết con mình, lại còn oán trách oan uổng cho ngài…”
Vương Thứ nói: “Không, tẩu không hẳn đã trách oan ta.”
Dương thị ngẩng đầu nhìn hắn.
Vương Thứ liền chậm rãi rũ mi mắt, chỉ nói: “Là khi ta kê thuốc cho tẩu, không dặn dò chu đáo, cũng không nghĩ đến việc quanh núi gần đây có mọc ngải tiên. Nếu không phải mấy hôm nay ta không ở y quán, tẩu vẫn tin tưởng ta như mọi người, khi bệnh tình A Bảo chuyển biến, hẳn sẽ tìm đại phu khác xem mạch, chứ không tiếp tục cho uống thuốc cũ ta đã kê…”
“Đủ rồi!” Hai mắt Dương thị đỏ au, cuối cùng không nén được nữa, nước mắt tuôn rơi: “Ngài tưởng nói mấy lời này có thể khiến ta dễ chịu hơn sao? Rõ ràng là ta không cẩn thận nên mới hại chết con! Dù không có ngải tiên, chẳng lẽ sẽ không có thứ khác? Nàng ấy không nói sai, chính là ta, ta đã giết con mình mà còn chẳng hay biết! Người nên đền mạng cho A Bảo, chính là ta! Ngài đi đi, đừng đến nữa—”
Nàng ném hai gói thuốc lại về phía hắn.
Thế nhưng Vương Thứ không rời đi, chỉ từ trong tay áo lấy ra một tờ giấy mỏng.
Đó là một tờ giấy thường dùng trong Bệnh Mai Quán để kê đơn, là loại giấy lông không tốt lắm. Nhưng trên giấy lại chẳng phải nét chữ thanh mảnh của hắn, càng không phải tên các loại dược liệu.
Chữ viết trên đó, vụng về đến tội.
Rõ ràng là do một đứa trẻ còn nhỏ tuổi đang học viết để lại, nét mực loang lổ nhòe nhẹ, bên cạnh còn có hai người nhỏ xíu được vẽ bằng ngón tay chấm mực.
Vương Thứ đưa tờ giấy về phía nàng:
“Hôm trước, A Bảo nghe nói tẩu muốn cho nó đi học, lúc đến chơi ở quán, nó đã năn nỉ ta dạy nó viết chữ. Ta dạy nó viết tên của mình. Nó nói, mỗi ngày tẩu phải lên núi làm thuê, kiếm tiền nuôi nó, mệt đến nỗi ho mãi không dứt. Sau này nó đi học, biết chữ rồi, sẽ đến quán học y với ta, giúp chị trị dứt bệnh ho…”
Dương thị tưởng như không thể tin nổi, nhận lấy tờ giấy ấy, xem kỹ, ngón tay khẽ lướt qua mặt giấy, nước mắt liền rơi xuống, làm nhòe cả mực viết.
Cổ họng Vương Thứ cũng dâng lên một nỗi nghẹn ngào, giọng càng lúc càng nhẹ:
“Sư phụ ta từng nói, từ xưa đến nay, người có thể làm đại phu tốt, hoặc là chính mình mang bệnh không thể trị, từ đó xem người khác như chính mình, thấu hiểu nỗi đau của người khác; hoặc là vì người thân mà học y, coi người đời như người thân, lòng mang từ bi. A Bảo từng hỏi ta, nó có thể học y được không. Ta đã nói, nếu nó trưởng thành, ắt sẽ là một vị lương y.”
Trên tờ giấy kia, từng nét bút đều là con trai bà viết xuống bằng cả tấm lòng.
Dương thị đã khóc đến không nói thành lời.
Vương Thứ chỉ nói: “Ta không biết A Bảo có kể chuyện này với tẩu hay chưa, nhưng ta nghĩ, tẩu nên biết. Ta sợ sau này… ta quên mất, hoặc tẩu cũng quên mất, vậy thì sẽ chẳng còn ai nhớ rằng nó từng có một nguyện vọng nhỏ như vậy.”
Dương thị khóc đến mức không đứng vững, ôm lấy mình, khuỵu xuống đất.
Vương Thứ nhìn nàng, thật lâu sau mới cúi người nhặt lại hai gói thuốc rơi dưới đất, đặt bên cửa, nói một câu “đã quấy rầy”, rồi khom người hành lễ, rời khỏi con ngõ hẹp.
Chu Mãn tựa ngoài ngõ, đã nghe được một lúc lâu, lúc này bèn quay đầu nhìn hắn.
Vương Thứ ngẩng đầu, cũng trông thấy nàng.
Hai người nhìn nhau, chẳng ai mở lời.
Vương Thứ thu lại ánh nhìn trước, tiếp tục bước về phía trước, nhưng mới đi được mấy bước liền dừng lại, ngập ngừng trong chốc lát, cuối cùng quay lại đứng trước mặt nàng:
“Xin lỗi, là ta không phải. Vốn dĩ ngươi không phải người thích xen vào chuyện người khác, vậy mà lại vì ta mà lên tiếng. Ta không nên nổi giận, không nên buông lời hồ đồ, càng không nên lớn tiếng với ngươi.”
Chu Mãn nhìn hắn, không đáp.
Vương Thứ bèn nói: “Ta biết, sự thật cuối cùng vẫn phải nói với nàng ấy, nhưng trong khoảnh khắc ấy, trong lòng thật sự khó mà quyết đoán. Là ta nên cảm ơn ngươi, ngươi đã làm thay ta việc ta không làm nổi.”
Chu Mãn hỏi: “Nếu nàng ấy đã chết rồi thì sao? Ngươi cũng không trách ta?”
Vương Thứ lại cúi đầu, lặng im rất lâu, cuối cùng chậm rãi nói: “Mang nỗi khổ đã lâu, lòng chịu giày vò, nếu quả thực không gánh nổi, sinh tâm đoạn tuyệt, tự mình kết thúc, cũng chưa hẳn không phải là một loại giải thoát.”
Chu Mãn nói: “Cho nên ngươi cũng không khuyên nàng nhất định phải sống.”
Vương Thứ nhẹ giọng đáp: “Ta chỉ hy vọng nàng có thể sống.”
Chu Mãn bỗng không biết nên nói gì.
Vương Thứ nhìn nàng, do dự một chút, vẫn mở lời: “Tóm lại, ta tuyệt đối không vì việc ngươi xen vào chuyện này mà nảy sinh chút nào không vui với ngươi. Chu Mãn, có thể đừng vì chuyện hôm nay mà sinh lòng chán ghét ta được không?”
Chu Mãn hỏi: “Ngươi vẫn luôn như vậy sao?”
Vương Thứ không hiểu: “Cái gì?”
Chu Mãn nói: “Luôn như vậy, cân nhắc trước sau, việc gì cũng muốn chu toàn, ai cũng muốn lo liệu cho ổn thỏa, đến bản thân còn chưa chắc bảo toàn được, mà vẫn muốn cứu thêm một người, nghĩ thêm cho một người nữa…”
Vương Thứ sững người, không thể đáp.
Chu Mãn nhìn hắn, trong lòng ngổn ngang trăm mối, thật sự không thể nói rõ cảm giác ấy là gì, chỉ biết rằng Kim Bất Hoán chọn hắn, quả thật là không chọn sai chút nào.
Ngũ cảm khiếm khuyết, thất mạch không thông, không thể tu luyện, thân như phế vật.
Thế mà một người như vậy, lại sinh ra một tấm lòng cứu đời.
Nàng không thể phân rõ rốt cuộc lúc này mình cảm thấy thương hại nhiều hơn, hay là châm chọc nhiều hơn, chỉ chậm rãi nói: “Bồ Tát, ngươi là làm bằng đất sét. Thiên hạ này người nhiều như thế, chẳng lẽ ngươi đều muốn cứu, mà cũng đều có thể cứu được sao?”
Nê Bồ Tát im lặng thật lâu, nhìn nàng, lại nói: “Cũng không phải cảm xúc của ai ta đều lưu tâm, cũng chẳng dám nghĩ rằng thân bệnh tật như ta lại có thể cứu hết người đời. Chỉ là ta…”
Chu Mãn nhíu mày.
Vương Thứ ngập ngừng trong chốc lát, mới nói tiếp: “Chỉ là… đã trông thấy rồi.”
Đã trông thấy, làm sao có thể vờ như không thấy?
Chu Mãn nghe xong, không nhịn được mà lắc đầu, nhìn những gương mặt đang qua lại trên phố Nê Bàn, già trẻ lớn bé, hỷ nộ ái ố chẳng đồng, rồi quay lại cười với hắn một tiếng: “Vậy thì, ngươi nên học cách nhắm mắt lại.”
***
Tinh Nguyệt: Chương này khóc quá chừng, có thể là vì edit từng câu chữ nên xúc cảm cũng mãnh liệt hơn. Tính cách mỗi nhân vật trong truyện của Thời Kính lúc nào cũng được thể hiện rất sinh động và rõ nét khiến ta mê truyện của bả quá chừng.