Mãn môn sao trảm – Chương 15

Chương 15: Thủ cấp

***

Lời của Diệp Phái không sai, quan viên không thể vô cớ bỏ triều. Cho dù có tâu bệnh, trong cung cũng sẽ lập tức phái người đến xem xét, nhất định phải biết vị quan ấy mắc bệnh gì, có thật sự cần cáo nghỉ hay không. Người được phái tới vừa nhìn tình cảnh ở Diệp phủ, lại bắt mạch một phen, liền xác định hôm nay Diệp Phái tuyệt đối không thể lên triều.

Người còn đang hôn mê trên giường kia kìa. Continue reading

Mãn môn sao trảm – Chương 13

Chương 13: Quen thuộc

***

Lúc ngẩng đầu lên, ánh mắt của Diệp Tích Nhân chạm phải hình bóng quen thuộc.

Giang quản gia đang dẫn theo mấy thị vệ vội vã chạy đến, sắc mặt ông trầm trọng, thậm chí có phần khó coi. Hành lễ xong lập tức đưa tay ra: “Đại công tử, Nhị tiểu thư, xin mau chóng theo ta rời khỏi đây.”

Giọng điệu dứt khoát, không cho phép phản bác. Continue reading

Mãn môn sao trảm – Chương 12

Chương 12: Đề phòng

***

Ngày mồng Một tháng Ba, trên đường cố tình sai Mã Sơn dẫn người đánh huynh trưởng một trận, ngăn chặn việc “gian lận trường thi”, đã hoàn thành. 

Ngày mồng Hai tháng Ba, đập vỡ tượng Quan Âm trong Phật đường của tổ mẫu, giấu kỹ bản đồ cùng tờ mật thư của nghịch đảng, ngăn chặn việc “tổ mẫu tư tàng chứng cứ thông địch”, đã hoàn thành. Continue reading

Mãn môn sao trảm – Chương 11

Chương 11: Liều giữ

***

Quả nhiên, dưới sự đề phòng nghiêm ngặt đến mức cả con ruồi cũng không lọt của Diệp Tích Nhân, từ sáng mùng Ba tháng Ba cho đến tận hoàng hôn, mọi thứ đều bình an vô sự, không xảy ra chuyện gì.

Cánh cổng đóng chặt vẫn cứ khép kín, không có ai đạp tung cửa xông vào Diệp phủ để bắt nàng “mãn môn sao trảm”. Diệp gia vẫn yên bình như thường. Continue reading

Mộng hồi Tây Châu – Chương 140

Chương 140: Cô Hoạch Ca (8)

***

Khoảnh khắc nhãn châu đen bay ra, Hải Triều biết đã lệch hướng, sức quá nàng nhỏ, lại trải qua một phen liều mạng giằng co, bàn tay chẳng đủ vững. Nhãn châu vạch thành một đường cong, tựa như cả trái tim nàng cũng theo đó bay ra ngoài, rồi rơi thẳng xuống vực sâu, nước mắt làm nhòe đi tầm nhìn.

Thế nhưng ngay lúc nàng gần như tuyệt vọng, chợt nghe một tiếng “bụp” nặng nề, nhãn châu không sai không lệch, đánh trúng vai phải quái vật. Nó phát ra một tiếng rên khàn, lập tức quẳng đứa nhỏ đang xách trong tay xuống đất đánh “bịch” một tiếng. Continue reading

Mộng hồi Tây Châu – Chương 139

Chương 139: Cô Hoạch Ca (7)

***

Hải Triều không nhớ mình phải bao lâu sau mới ngủ được. Nửa đêm mơ mơ màng màng, nàng cảm thấy lồng ngực nóng rực như giấu một hòn than hồng. Vươn tay sờ thử, thì bỏng đến nỗi nàng giật mình tỉnh lại, lúc này mới nhớ trong vạt áo có cất viên nhãn châu bằng ngọc mà Trình Hàn Lân đưa cho hôm nay.

Nàng ngồi bật dậy, mở áo lấy nhãn châu đặt lên chăn, vòng bạch tinh bao quanh viên thạch đã hóa thành màu huyết hồng, trong bóng đêm chập chờn lóe sáng đỏ ngầu. Continue reading

Mộng hồi Tây Châu – Chương 138

Chương 138: Cô Hoạch Ca (6)

***

Người tới vậy mà lại là tiểu lang quân nhà họ Trịnh. 

Hải Triều nghĩ mãi không thông, rõ ràng có nhiều người canh giữ ở thiền viện nơi Trịnh gia trú ngụ, hắn chỉ là một thiếu niên hơn mười tuổi, sao có thể lặng yên không một tiếng động mà chạy thoát ra đây, lại càng không hiểu vì sao hắn xuất hiện ở Phật đường để thi thể này. Continue reading

Mộng hồi Tây Châu – Chương 137

Chương 137: Cô Hoạch Ca (5)

***

Mưa núi cuối cùng cũng trút xuống, cả ngọn núi bị mây mù bao phủ, trời đất u ám. 

Chư tăng đem thi thể đứa bé về chùa, tạm đặt trong Phật đường. Cái chết của một đứa trẻ mồ côi vốn chẳng mấy ai để tâm, nhưng lại phủ lên Chiêu Minh tự một tầng âm u chẳng lành, thậm chí còn lấn át cả khí thế khi Trịnh gia quang lâm. Continue reading

Mộng hồi Tây Châu – Chương 136

Chương 136: Cô Hoạch Ca (4)

***

Giọng nói trong trẻo, mơ hồ chẳng phân nam nữ của thiếu niên kia khiến Hải Triều khựng lại. Chỉ vừa nghe tiếng ấy, ký ức như từ vực sâu vọt lên, nàng đã biết Lương Dạ cũng đã biến nhỏ, trở thành thiếu niên trong trí nhớ.

Trong lòng nàng không hiểu sao như có con cá nhỏ bơi lượn, quẫy đuôi phập phồng, làm trái tim cũng đập “thình thịch, thình thịch”.

Hắn dùng cả hai tay nắm chặt tay nàng, lòng bàn tay hơi nóng, sức lực và thời gian nắm đều vượt xa thường ngày. 

Hải Triều nhận ra sự khác thường, khẽ hỏi: “Ngươi sao vậy?”

Lương Dạ tựa như ý thức được mình thất thố, chậm rãi buông tay, giọng lại khôi phục vẻ bình thản thường ngày: “Không sao, chỉ là bệnh suyễn phát tác, có lẽ còn hơi phát sốt.”

“Chắc chắn là sốt rồi, tay ngươi nóng quá.” Hải Triều nói: “Đúng rồi, mau mở cửa đi.”

Lương Dạ đáp: “Chúng ta cứ nói qua cửa thôi, miễn đem bệnh khí truyền cho các ngươi.”

Hải Triều gật đầu: “Ừm.”

Lương Dạ biết thế là đúng, song trong lòng vẫn đột nhiên trống rỗng, giống như vô tình hụt mất một bậc thang.

Đúng lúc ấy, hắn nghe thấy một tiếng huýt, tiếp đó một cái đầu nhỏ lông xù ló ra từ cửa sổ, chưa kịp mở miệng, Hải Triều đã chui nửa người qua khung cửa, chẳng đắn đo mà nhảy ùm xuống.

Lương Dạ giật mình, cửa sổ kia không lớn nhưng lại cao, cách đất phải bằng một người trưởng thành. Hắn vội dang tay đỡ lấy nàng.

Hải Triều hơi ngượng, lùi lại một bước, mượn ánh sáng hắt vào từ cửa sổ mà đánh giá hắn: “Ôi chao, thì ra hồi nhỏ ngươi trông như vậy, ta chẳng còn nhớ nữa.”

Nàng không hề nói dối, nàng và Lương Dạ cách nhau hai tuổi, khi Lương Dạ còn nhỏ thì nàng lại nhỏ hơn, ký ức đã sớm mờ nhạt, chỉ còn giữ lại ấn tượng “rất đẹp”.

Mà nay nhìn lại, nào chỉ là rất đẹp, quả thực đẹp đến kinh tâm động phách.

Da hắn trắng gần như trong suốt, dường như có thể nhìn thấy mạch máu xanh nhạt phía dưới; vì bệnh mà gương mặt hồng ửng bất thường; đôi mắt trong suốt như ướt nước, lông mi dài đọng sương mù hay giọt lệ, tựa lông quạ thấm ướt; mái tóc nửa dài mềm mại buông trên vai, thoảng ánh xanh nhạt.

Hải Triều nhìn mà thấy lòng mình như tan chảy, nhịn không được thốt ra: “Lương Dạ, ngươi thật là đẹp quá!”

Lương Dạ thẹn thùng cụp mắt, hai má càng đỏ, lùi lại hai bước: “Ta bệnh rồi, chẳng rõ là bệnh gì, nàng đừng đến quá gần.”

“Đúng rồi, Lục tỷ tỷ với Trình Hàn Lân còn ở ngoài kia,” Hải Triều vừa nói vừa đi tới mở then cửa: “Chúng ta có mang cháo cho ngươi, uống lúc còn nóng đi.”

Cửa mở ra, Trình Hàn Lân và Lục Uyển Anh thò đầu bước vào. Lương Dạ khẽ gật đầu với họ, hiển nhiên không bất ngờ khi thấy bọn họ đều biến thành thiếu niên.

Trình Hàn Lân nhìn hắn, kinh ngạc đến há hốc miệng, nửa ngày mới sờ lên cái đầu bóng loáng của mình: “Tử… Tử Minh…”

Hải Triều liếc hắn một cái: “Biết Tiểu Dạ đẹp thì cũng đừng có nhìn chằm chằm như thế chứ!”

Trình Hàn Lân đỏ mặt ngượng ngùng, lẩm bẩm: “Lần đầu tiên thấy Tử Minh thế này, giật mình thôi mà.”

Hải Triều đón lấy giỏ tre trong tay hắn, bưng bát cháo ra đưa cho Lương Dạ: “Uống nhanh đi, còn nóng đấy.”

Trong phòng không có bàn ăn, cũng chẳng có đệm hay ghế, mấy người chỉ có thể ngồi ngay trên đất.

Lục Uyển Anh nhìn sắc mặt bất thường của Lương Dạ: “Lương công tử có phải là bệnh rồi?”

Lương Dạ gật đầu: “Bệnh suyễn tái phát, lại thêm chút sốt.”

Lục Uyển Anh tìm trong thắt lưng lấy ra một túi vải nhỏ: “Ta có mấy viên đan dược trừ phong tà, Lương công tử mau uống, may ra có chút tác dụng.”

Lương Dạ nhận lấy, cảm tạ.

Hải Triều hỏi Trình Hàn Lân: “Đúng rồi, trong bí cảnh này pháp khí, phù chú của huynh còn không?”

Trình Hàn Lân vỗ trán: “Suýt thì quên. Gương đồng với pháp loa đều còn, chỉ là phù chú hao mất quá nửa, phải dùng dè xẻn, ta giấu hết trong phòng tăng xá. Nào ngờ lại gặp được Hải Triều muội muội và Lục nương tử, sớm biết vậy đã mang theo bên người rồi.”

Lục Uyển Anh cũng nói: “Đan dược cũng vơi mất quá nửa, ngoài mấy viên trừ tà, an thần, thì chỉ còn ít thuốc trị thương.”

Lương Dạ lại hỏi Trình Hàn Lân: “Có đem được vật gì từ bí cảnh trước ra không?”

Trình Hàn Lân được hắn nhắc mới sực nhớ: “Có! Có chứ! Chính là con ngươi của ngọc tượng kia, chính giữa là viên diệu thạch, vòng ngoài là bạch tinh thạch, khi mò được nó, ta còn bị dọa cho một phen.”

“Vật đó có công dụng gì?” Hải Triều hỏi.

“Việc này thì không biết được.” Trình Hàn Lân lắc đầu, “Đợi ta trở về, sẽ lén lấy ra cho các ngươi xem.”

“Không cần gấp.” Lương Dạ khẽ gật đầu, bưng thìa cúi đầu uống cháo.

Hải Triều ngồi một bên, chống cằm nhìn hắn. 

Tiểu Lương Dạ từ nhỏ ăn uống đã rất nhã nhặn, không phát ra tiếng, chẳng tạo động tĩnh, nhìn thôi cũng đã thấy vừa mắt.

Lương Dạ uống được vài ngụm, bất giác lại nghiêng mắt nhìn nàng, khuôn mặt thiếu nữ màu mật thoáng hiện hai đóa hồng ửng, hẳn là khi chạy đến vội vàng nên đầu mũi còn vương mấy giọt mồ hôi mịn, sống mũi có vài nốt tàn nhang nho nhỏ.

Nàng cười để lộ chiếc răng nanh hơi mọc lệch, mái tóc mịn phủ lòa xòa trên vầng trán sáng sủa, khiến tim người ta như mềm nhũn.

Lương Dạ vốn chẳng có bao nhiêu khẩu vị, nhưng dưới ánh mắt nàng dõi theo, hắn cũng cố gắng uống hết hơn nửa bát cháo.

Sau đó hắn uống thuốc, rồi nhận lấy khăn tay Hải Triều đưa mà lau khóe miệng.

“Đỡ hơn chút nào chưa?” Hải Triều hỏi.

“Đỡ nhiều rồi.”

Lương Dạ quay sang cảm ơn hai người Trình Lục, rồi bắt đầu nói vào việc chính.

Ba người đem đại khái tình hình của Chiêu Minh tự và Bi Điền Phường thuật lại.

Lương Dạ suy nghĩ một lát: “Trong bí cảnh này chúng ta hành động bất tiện, mọi việc phải càng thêm cẩn thận.”

Hắn nói với Trình Hàn Lân: “Thân phận của Ngọc Thư tiện lợi trong việc dò hỏi tin tức, huynh phải sớm điều tra rõ ràng tình hình Chiêu Minh tự, người nhà họ Trịnh cùng thành trì bên ngoài, càng chi tiết càng tốt, tốt nhất có thể vẽ lại một tấm bản đồ địa hình Chiêu Minh tự, để tiện hành động.”

Trình Hàn Lân gật đầu đồng ý.

“Thế còn ta với Lục tỷ tỷ thì sao?” Hải Triều hỏi: “Chúng ta có thể làm gì?”

Lương Dạ đáp: “Hôm nay người Trịnh gia sẽ đến, nhất định sẽ vào Bi Điền Phường tra xét, hai người hãy chú ý quan sát, có gì dị thường đều phải nhớ kỹ, chờ khi gặp lại, chúng ta sẽ gom góp toàn bộ tin tức.”

“Đúng rồi,” Hải Triều chợt nhớ ra, “Sáng nay có một đứa bé tên Lâm Tam Lang mất tích, lão phụ kia đi tìm rồi, không rõ giờ đã tìm thấy chưa.”

Lương Dạ nhíu mày: “Tin tức chưa rõ, nhưng e rằng dữ nhiều lành ít.”

Trong lòng Hải Triều trĩu xuống, cùng Lục Uyển Anh liếc nhau một cái: “Chúng ta cũng nghĩ như vậy.”

Đúng lúc này, từ ngoài cửa mơ hồ truyền đến tiếng nam tử hô gọi: “Đàm Sinh… Đàm Sinh… sao đi đưa cơm lâu như vậy còn chưa về? Sư phụ đang tìm đệ đó!”

Trình Hàn Lân nghiêng tai lắng nghe, sắc mặt chợt biến đổi: “Ai da! Là Đàm Viễn sư huynh đến tìm ta, ta phải đi thôi! Sư phụ mà không thấy ta sẽ phạt ta đi chọn phân mất!”

Hải Triều vừa nghe đến hai chữ “dọn phân”, thì vội vàng giục hắn: “Vậy huynh mau chạy đi!”

Lương Dạ nói: “Hai người cũng nên về đi.”

Hải Triều nhíu mày: “Vậy còn ngươi thì sao? Một mình buồn bã trong căn phòng tối tăm này, lại còn đang mang bệnh…”

“Không sao đâu.” Lương Dạ khẽ đáp, “Uống thuốc ăn cháo đã thấy khá hơn nhiều, ta sẽ tự lo được.”

Hải Triều vẫn còn chưa yên tâm, song Lương Dạ nhiều lần thúc giục, nàng mới miễn cưỡng đứng dậy, luyến tiếc chẳng nỡ rời: “Ngươi cứ an tâm dưỡng bệnh, ta sẽ tìm cơ hội lại đến thăm ngươi.”

Lương Dạ nói: “Đừng đến nữa, quá mạo hiểm.”

Lương Dạ dừng lại một chút rồi nói: “Ta đã uống thuốc, biết đâu ngày mai có thể khỏi hẳn để về lại cô nhi phường.”

Hải Triều ngoài miệng thì thuận theo, nhưng trong lòng đã âm thầm tính toán làm sao tìm cách chuồn lén ra để xem tình hình của hắn.

Ba người ra khỏi cửa, Lương Dạ đưa mắt nhìn theo bóng họ xa dần. Chân trời đã bắt đầu vang lên những hồi sấm dồn dập. Hải Triều quay đầu lại, thấy thiếu niên khoác áo đơn đứng lẻ loi bên tường rêu ẩm trước cổng tò vò đen sì, chóp mũi bỗng chốc ê ẩm chua xót.

Căn phòng ấy vừa tối tăm vừa u ám, vách tường ẩm thấp, chiếu chăn loang mùi mốc meo. Ở một chỗ như vậy, sao mà có thể tĩnh dưỡng cho ra hồn.

Trình Hàn Lân thì bị Đàm Viễn sư huynh lôi trở về. Ba người họ xuyên qua rừng mai, đến nhánh đường mòn rộng rãi liền nói lời từ biệt, Hải Triều cùng Lục Uyển Anh lại quay về cô nhi phường.

Bọn nhỏ thì ngồi không chịu yên, Liêu ma ma, Quách nương tử cùng hai a hoàn áo xanh đều không có mặt. Hải Triều bèn hỏi thằng bé lắp bắp: “Liêu ma ma với mọi người đâu? Còn đang đi tìm người sao?”

Thằng bé lắp bắp vừa lau nước mũi vừa gật gật đầu: “Còn, còn đang tìm, Tam… Tam Lang vẫn chưa thấy, mấy… mấy hòa thượng trong chùa cũng giúp… giúp đi tìm rồi.”

Một bé gái tám chín tuổi đứng cạnh chen vào: “Vọng Hải Triều, Liêu mụ mụ mới vừa tìm các ngươi, bảo các ngươi đừng quên đến Giới đường lĩnh phạt chép sách, bà ấy về sẽ kiểm tra đó, các ngươi mau đi đi!”

Hải Triều hỏi rõ chỗ Giới đường, rồi cùng Lục Uyển Anh tay nắm tay đi đến đó.

Cái gọi là Giới đường, chính là một căn phòng đen ngòm, tỏa ra mùi giấy cũ mực khô đặc trưng, chẳng thể nói là hôi, nhưng không hề dễ ngửi.

Bút mực giấy nghiên đều bày trên án, còn có một quyển “Nữ Giới” rách nát.

Hải Triều mở ra xem mấy dòng thì cau mũi ghét bỏ: “Cái thứ quái quỷ gì thế này!”

Lục Uyển Anh mỉm cười: “Để ta chép giúp muội nhé.”

“Thế sao được!” Hải Triều nói, “Chữ gà bới của ta Lục tỷ tỷ cũng chẳng viết nổi đâu.”

Nói rồi nàng vừa nhỏ nước vào nghiên, vừa xắn tay áo bắt đầu mài mực.

Lục Uyển Anh thấy động tác nàng thuần thục, thoáng lộ vẻ ngạc nhiên: “Hải Triều trước đây từng tập viết sao?”

“Lúc nhỏ Lương nương tử… chính là mẫu thân của Lương Dạ, từng dạy chúng ta nhận chữ. Nhưng nào có bút mực giấy cho chúng ta phá, đều dùng cành cây vạch trên cát thôi.” Hải Triều giải thích, “Sau này Lương Dạ bắt đầu đọc sách, ta thì sức lớn, tay cũng khỏe, không giúp được việc gì khác thì mài mực cho hắn. Mài lâu dần nên tìm ra bí quyết.”

Khi ấy dùng nghiên ngói, mực là nhặt ở nhà huyện lệnh mấy khúc mực thừa, đem làm ướt rồi ép dính lại, nhìn thì như rễ cây khô cong queo, nhưng chẳng ảnh hưởng gì đến việc ra mực cả.

Hải Triều kể cho Lục Uyển Anh nghe, nàng liền nói: “Muội đối với Lương công tử thật tốt.”

“Hắn cũng đối xử với ta rất tốt.”

Hải Triều trải tờ trúc giấy mỏng đã ố vàng, nín thở bắt đầu chép Nữ Giới.

“Lục tỷ tỷ không cần nhìn chép sao?” Nàng hiếu kỳ nhìn Lục Uyển Anh đưa bút như bay.

“Hồi nhỏ thường bị phạt chép, đã sớm thuộc lòng rồi.” Lục Uyển Anh mỉm cười nói.

Hải Triều trừng mắt: “Lục tỷ tỷ cũng từng bị phạt chép ư?”

“Hải Triều không biết đấy thôi, ta hồi nhỏ nghịch ngợm lắm, sau này sinh bệnh mới ngoan hơn.” Lục Uyển Anh vừa cười vừa nói.

Hải Triều nghĩ ngợi một lúc, rồi cũng chẳng lấy làm lạ. Lục Uyển Anh bề ngoài là tiểu thư khuê các đoan trang yếu đuối, nhưng trong xương cốt thì chẳng hề mềm yếu chút nào.

Đúng lúc nàng đang ngẩn ngơ, Lục Uyển Anh đã chép xong nửa quyển.

Nàng vội vàng chụp lấy bút bắt đầu viết loạn lên, nét bút lộn xộn, chữ nghĩa như quái thú giương nanh múa vuốt.

Lục Uyển Anh viết một chốc, buông bút xoa cổ tay, rồi nghiêng người sang xem chữ nàng.

Hải Triều nhìn trang giấy toàn chữ gà bới cũng thấy chột dạ, vội đè lên che lại: “Lục tỷ tỷ đừng nhìn, khó coi lắm.”

Lục Uyển Anh bật cười: “Chữ như người, chữ của Hải Triều cũng giống như muội vậy, phóng khoáng tự do, chẳng câu nệ gì.”

Hải Triều bị nàng khen đến đỏ bừng cả mặt.

Khó khăn lắm mới chép xong một chương, Hải Triều buồn ngủ đến mức gà gật liên hồi, trong lúc bất cẩn cầm bút lộn ngược, đầu bút chọc vào sống mũi, má liền in thêm một vết mực đen sì. 

Lục Uyển Anh trông thấy thế che miệng cười khúc khích. 

Hải Triều thò đầu nhìn, thấy nàng đã chép xong ba chương, trong đó có một chương còn bắt chước nét chữ của mình, mấy chữ xiêu vẹo nghiêng ngả cũng học được đến bảy tám phần giống.

“Lục tỷ tỷ, tỷ thật lợi hại!” Lục Uyển Anh nâng tờ trúc giấy, khẽ thổi: “Chuyện nhỏ thôi…”

Lời còn chưa dứt, ở cửa ló ra một cái đầu nhỏ, chính là tiểu cô nương vừa chỉ cho họ đường đến Giới đường. 

“Có chuyện gì thế?” Hải Triều hỏi nàng. 

“Liêu mụ mụ bảo, phu nhân cùng tiểu lang quân, tiểu nương tử Trịnh gia sắp đến rồi, gọi các ngươi mau chóng trở về tiền sảnh.” 

“Nhưng chúng ta còn chưa chép xong!” Hải Triều nói. 

“Mụ mụ dặn tạm gác lại, ban đêm chép bù.”

Hải Triều cùng Lục Uyển Anh đưa mắt nhìn nhau, bèn đậy nghiên mực, đứng dậy theo tiểu cô nương ấy đi về tiền sảnh.

Chủ nhân Trịnh gia giá lâm, toàn bộ cô nhi ở Bi Điền Phường đều phải lên sơn đạo nghênh đón ân nhân, lũ trẻ đã xếp thành hàng sẵn sàng xuất phát. Liêu mụ mụ mặt mày căng cứng, quát lớn: “Nhanh lên! Giờ nào rồi còn rề rà! Chẳng lẽ để quý nhân phải chờ các ngươi?”

Bà lão này miệng chẳng bao giờ nói được lời dễ nghe, Hải Triều coi như không nghe thấy, vẫn chậm rãi bước tới. 

Liêu mụ mụ liếc qua hai người, ánh mắt dừng trên gò má nàng, nhíu mày: “Trên mặt kia là cái gì vậy?”

Hải Triều đưa tay sờ: “Bị dính mực thôi.” 

Liêu mụ mụ vốn định bắt nàng đi rửa mặt, lại sợ lỡ việc lớn, đành nói: “Ngươi đứng cuối hàng, né sang một bên, chớ làm bẩn mắt quý nhân.”

Hải Triều nghe vậy thì nổi sẵng: “Hóa ra mắt quý nhân quý báu đến vậy, nhìn không nổi một chút dơ bẩn sao? Vậy nếu họ trông thấy bà thì biết làm thế nào đây?”

Mặt Liêu mụ mụ đỏ trắng đan xen: “Vọng Hải Triều! Ngươi cứ chờ đó! Xem ta xử trí ngươi thế nào!”

Hải Triều lè lưỡi: “Ôi chao, ta sợ quá đi mất.”

Vài đứa trẻ không nhịn được cười khúc khích.

Đúng lúc này, Quách nương tử xuất hiện trong sân: “Có chuyện gì mà cười vui thế? Nói ta nghe xem nào.”

Lũ trẻ tức thì im phăng phắc, đến thở mạnh cũng chẳng dám. Hải Triều phát hiện Quách nương tử tuy không dữ tợn như Liêu mụ mụ, nhưng quanh thân lại toát ra sự uy nghiêm khiến người ta không dám khinh suất.

Quách nương tử khẽ nâng tay, bọn trẻ chỉnh hàng ngay ngắn, lần lượt bước ra ngoài. Khi Hải Triều đi ngang qua, ánh mắt nàng đảo qua gò má, vẻ mặt hơi trầm xuống: “Khoan đã.”

Hải Triều lập tức chuẩn bị tâm lý chịu phạt, Lục Uyển Anh bên cạnh lo lắng nắm chặt vạt áo. Không ngờ Quách nương tử chỉ từ trong tay áo lấy ra một chiếc khăn trắng gấp vuông vức, đi đến bên chum nước dưới hành lang, thấm ướt rồi cúi xuống lau sạch vết mực trên má nàng, động tác vừa phải, dứt khoát, không mang chút tình cảm, chỉ như làm công việc vốn dĩ.

“Được rồi, đi thôi.” Nàng nói.

Hải Triều thở phào một hơi, cùng Lục Uyển Anh tay khoác tay nhập vào hàng ngũ.

Họ đến sớm, đứng ngay ngắn ngoài cửa núi. Chẳng bao lâu, phương trượng Chiêu Minh tự cũng dẫn hơn hai chục tăng nhân lớn nhỏ đứng xếp hàng đối diện. Hải Triều ở cuối hàng trông thấy Trình Hàn Lân đứng cùng các sư huynh, liền nháy mắt tinh nghịch với hắn.

Đợi chừng nửa khắc, cuối đường núi mới truyền đến tiếng chuông đồng ngân xa và tiếng vó ngựa, chính là người nhà họ Trịnh đã đến.

Chủ nhân nhà họ Trịnh cộng lại chỉ có năm người, nhưng tùy tùng, bộ thuộc lại hơn ba chục. Có kẻ cầm dùi trống, có người phe phẩy lông chim, có kẻ cầm phất trần, người nâng màn họa, phía sau còn nối dài những xe chở đồ vật khí dụng, một dãy chẳng thấy điểm tận, phô trương chẳng khác nào ngự giá của thiên hoàng quý tộc.

Đoàn xe dừng lại ngoài cửa núi, bọn nô bộc tỳ nữ tiến lên dìu chủ nhân nhà họ Trịnh từ cỗ xe ngựa trang sức lộng lẫy bước xuống. 

Hải Triều nhớ lời dặn của Lương Dạ, trừng lớn đôi mắt, chăm chú dõi theo cả nhà họ mà không chớp lấy một lần.

Người xuống xe trước tiên là Trịnh lang quân, tuổi đã quá bốn mươi, gương mặt trắng trẻo thon dài, mày thanh mắt tuấn, toàn thân mang khí chất thanh nhã của một bậc văn sĩ tao nhã, chỉ là trong ánh mắt lại ẩn chứa vẻ u sầu, như mang một mối thương tâm khó giải. Sau khi xuống xe, ông đi ngay đến cỗ xe ngựa phía sau, đích thân dìu nương tử bước xuống.

Trịnh nương tử y phục mộc mạc, trên đầu đội đấu lạp, tầng lụa mỏng buông dài tận thắt lưng. Dáng người mảnh khảnh, song sống lưng thẳng tắp, cử chỉ đoan trang, một dáng vẻ tiểu thư thế gia chính thống. 

Quách nương tử bước lên hành lễ với hai người, Hải Triều chú ý thấy hai má nàng hơi ửng đỏ, trán lấm tấm một lớp mồ hôi mịn.

Tỳ nữ bên cạnh Trịnh nương tử hỏi: “A Quách dạo này vẫn mạnh khỏe chứ?” 

Quách nương tử liếc nhìn nữ chủ nhân, khẽ mím môi đáp: “Đa tạ nương tử quan tâm, nô tỳ vẫn bình an.”

Trịnh lang quân từ đầu đến cuối đều dõi mắt theo thê tử, ánh mắt dịu dàng. Khi nàng xuống xe đưa tay ra cho hắn, giờ đây nàng không cần dìu nữa, nhưng đôi tay hai người vẫn tự nhiên nắm chặt lấy nhau. Cả hai không nói một lời, song tựa như có một luồng gió ấm vô hình lưu chuyển miên man giữa họ. 

Quách nương tử cụp mắt lui sang một bên, vẫn không hề liếc nhìn đến nam chủ nhân.

Kế đó, ba đứa trẻ nhà họ Trịnh lần lượt xuống xe. 

Trước đó Hải Triều đã nghe ngóng được, dưới gối Trịnh lang quân có một trai hai gái: trưởng nữ Trịnh Đại Nương mười ba tuổi, thứ nữ Trịnh Nhị Nương bảy tuổi, đều là do nguyên phối sinh ra; còn nhi tử độc nhất mười một tuổi, là con của thiếp thất. Kế thất gả vào nhà họ Trịnh đã ba năm, đến nay vẫn chưa có con nối dõi.

Trên đầu trưởng nữ cũng đội đấu lạp như mẹ kế, song là bằng lụa xanh, bởi vậy không thể thấy rõ dung nhan. Khi xuống xe, chẳng biết sao lại vấp chân, loạng choạng một cái. Trịnh lang quân lập tức buông tay kế thất, xoay người đỡ lấy ái nữ: “Không sao chứ?”

Tỳ nữ của Trịnh nương tử lập tức quát mắng: “Đã dặn các ngươi bao lần, hầu hạ tiểu nương tử phải cẩn trọng chu đáo, sao lại bất cẩn như vậy!”

Trịnh lang quân giơ tay ngăn lại, nói với Trịnh nương tử: “Có sơ suất cũng là lẽ thường, không cần quá nghiêm trách hạ nhân.”

Trên mặt Trịnh nương tử thoáng lộ vẻ áy náy, khẽ cúi người. Tỳ nữ của nàng lập tức thu giọng: “Xin lang quân tha tội, nô tỳ chỉ lo tiểu nương tử bị thương, nên mới nóng nảy.”

Trịnh lang quân độ lượng nói: “Ngươi cũng chỉ vì lo lắng mà hoảng hốt thôi.”

Hải Triều chú ý thấy, luồng hơi ấm vô hình giữa phu thê hai người bỗng chốc tan biến, bị cắt ngang ngay tức khắc. Điều khiến nàng càng thắc mắc hơn là Trịnh nương tử từ đầu tới cuối chẳng hé môi nửa lời, bất kể trách mắng hay nhận lỗi đều do tỳ nữ bên cạnh thay nàng cất tiếng, dường như nàng vốn không thể nói.

Không thể nói chuyện… Hải Triều bỗng hiểu ra đôi chút, chẳng lẽ Trịnh nương tử chính là kẻ câm? Đang nghĩ vậy, chợt thấy Trịnh nương tử giơ tay làm một loạt thủ thế khá phức tạp với tỳ nữ, tỳ nữ liên tiếp khom người, bộ dáng nhận lỗi. 

Quả nhiên là người câm, Hải Triều thầm nghĩ.

Phản ứng của trưởng nữ Trịnh gia cũng cực kỳ quái lạ, bởi vì phản ứng của nàng chính là không có phản ứng gì. Cứ như một pho tượng gỗ, nàng buông tay, ngay ngắn đứng yên một bên, dường như chuyện vừa rồi chẳng hề liên quan gì đến mình.

Trịnh lang quân lại hỏi nàng: “Có nóng không? Gỡ đấu lạp xuống đi.” Tiểu nương tử khẽ gật đầu, ngoan ngoãn tháo đấu lạp  xuống cầm trong tay.

Trong đám người ra nghênh đón, đã có kẻ không nhịn được thốt lên kinh hô, ngay cả Hải Triều cũng giật mình sửng sốt.

Vị tiểu nương tử nhà họ Trịnh kia quả thật xinh đẹp hiếm thấy. Hải Triều từng trải qua ba bí cảnh, cũng gặp qua không ít mỹ nhân, đây vẫn là lần đầu tiên nàng thấy được một thiếu nữ có dung nhan chẳng hề kém cạnh Lương nương tử.

Diện mạo nàng cũng trắng mịn, song không giống Lương Dạ trong suốt như ngọc, mà tựa như thứ sứ mỏng tinh xảo được nung luyện kỹ càng, toát lên vẻ khéo léo nhân tạo. Nhưng khi nhìn kỹ vào đôi mắt, sự kinh diễm sẽ hóa thành thương tiếc bởi một đôi con ngươi đen láy ấy hoàn toàn vô thần nhìn thẳng về phía trước, hiển nhiên chẳng thấy được gì. Một tiểu nương tử xinh đẹp đến vậy, lại là kẻ mù.

Cảm thấy tiếc nuối hiển nhiên chẳng phải chỉ có mình Hải Triều, trong đám đông cũng truyền ra tiếng “chậc chậc” thở than. 

Trên mặt Trịnh lang quân không lộ chút tức giận, chỉ độ lượng gật đầu với mọi người, để ái nữ khoác lấy cánh tay mình bước qua cổng, Trịnh nương tử thì thân mật năm một bên tay còn lại của kế nữ.

Tiểu nữ thứ hai của nhà họ Trịnh được nhũ mẫu dắt đi phía sau, nhảy nhót tung tăng. Dung mạo so với tỷ tỷ thì bình thường hơn nhiều, song đôi mắt lại sáng rỡ, lộ vẻ hoạt bát lanh lợi. Hết thảy ánh nhìn đều đặt trên trưởng nữ, hoàn toàn coi nhẹ tiểu cô nương, nhưng nó chẳng chút bận tâm, còn định vươn tay hái hoa dại ven đường, may mà nhũ mẫu kịp thời kéo lại.

Trịnh tiểu lang đi ở sau cùng, tạm thời là nhi tử độc đinh của Trịnh gia, có lẽ tương lai sẽ là người thừa kế gia nghiệp, nhưng dường như chẳng ai để tâm đến hắn, ngay cả bọn nô bộc cũng chẳng lấy lòng. Ngũ quan hắn khá giống phụ thân, chỉ là gương mặt không quá dài hẹp, thêm phần tròn trịa non nớt. Nhưng điều khiến Hải Triều chú ý chính là ánh mắt ấy tuyệt chẳng phải ánh mắt của một thiếu niên bình thường.

Đúng lúc ấy, hắn bỗng xoay mặt sang, Hải Triều bất ngờ đối diện ánh nhìn của hắn. Trịnh tiểu lang hơi nghiêng đầu đánh giá nàng, trong mắt như có ánh sáng lóe lên. Hải Triều vô cớ run rẩy trong lòng, song lại không hề né tránh. 

Trịnh tiểu lang quân khẽ nhếch khóe môi, hơi ngẩng cằm, rồi thu lại ánh mắt như vừa liếc qua một tảng đá hình thù kỳ lạ bên vệ đường.

Ngay khi đó, Trịnh nương tử mới như sực nhớ đến đám cô nhi này, buông tay kế nữ dừng bước, quay đầu nhìn bọn họ qua lớp lụa mỏng, rồi ra một loạt thủ thế cho tỳ nữ. 

Tỳ nữ liền hỏi Quách nương tử: “Nương tử hỏi, đây chính là những đứa trẻ mà Bi Điền Phường cưu mang?”

Quách nương tử không kiêu ngạo cũng chẳng tự ti, đáp: “Đúng vậy.”

Trịnh nương tử lại làm thêm vài động tác tay, cuối cùng đặt tay lên cánh tay Quách nương tử, thân mình hơi nghiêng về phía trước, bộ dáng chân thành tín nhiệm. 

Tỳ nữ truyền lời: “Nương tử nói, ngươi đã chăm sóc bọn trẻ rất chu đáo.”

Quách nương tử ưỡn thẳng sống lưng: “Nô tỳ không dám phụ sự tín nhiệm của lang quân và nương tử.”

Trịnh nương tử mỉm cười không tiếng, tiến đến gần lũ trẻ, từ đầu hàng nhìn xuống cuối, dừng lại trước mặt Hải Triều, đưa tay khẽ vuốt mái tóc trên đỉnh đầu nàng. 

Tỳ nữ hỏi: “Đứa bé ngoan này tên gì? Năm nay bao nhiêu tuổi?”

“Ta tên Vọng Hải Triều, năm nay bảy tuổi.” Hải Triều đáp. 

Tỳ nữ mỉm cười: “Tiểu cô nương này quả thật miệng lưỡi lanh lợi.”

Trịnh nương tử nhìn nàng hồi lâu, rồi từ hương nang bên hông lấy ra một khối vàng nhỏ đưa cho nàng. 

Quách nương tử khẽ ngẩn người, Liêu mụ mụ đã lập tức nhảy ra đẩy tay nữ chủ nhân: “Không được không được! Con bé này nghịch ngợm lắm! Sao có thể xứng nhận ban thưởng của nương tử!”

Quách nương tử cau mày thật sâu, đang định quở trách, thì Trịnh nương tử giơ tay ngăn lại, ra dấu với tỳ nữ. 

Tỳ nữ nói: “Nương tử nói, vị này hẳn là Liêu mụ mụ? Trước đây đã nghe A Cố nhắc đến ngươi, chăm sóc nhiều đứa trẻ thế này quả thực chẳng dễ dàng. Nương tử ghi nhận tấm lòng của ngươi, sau này sẽ ban thưởng.”

Liêu mụ mụ mừng đến mức chân tay luống cuống, liên tục cúi đầu khom lưng. 

Trịnh nương tử nắm lấy bàn tay nhỏ của Hải Triều, đặt khối vàng vào lòng bàn tay nàng, rồi khép lại. 

Tỳ nữ nói: “Đây là nương tử ban thưởng cho ngươi, cầm lấy mà chơi, nhớ đừng làm mất.”

Liêu mụ mụ liền đẩy nàng một cái: “Còn không mau tạ ân!”

Hải Triều nhìn bánh vàng trong tay, lẩm bẩm: “Thứ này ăn không được…”

Trịnh nương tử khẽ che miệng cười, đưa tay nhéo nhéo khuôn mặt bụ bẫm của nàng, rồi lại ra hiệu với tỳ nữ. 

Tỳ nữ đáp một tiếng, quay vào xe lấy ra một hộp đồ ăn cao đến bảy tám tầng, trở lại nhét vào ngực Hải Triều: “Đây đều là nương tử ban cho ngươi, chậm rãi mà ăn.”

Đôi mắt Hải Triều sáng bừng, Lương Dạ đang bệnh, cần phải có cái gì bổ dưỡng hơn để bồi bổ, chứ chẳng thể uống cháo loãng mãi.

Trịnh nương tử tháo mịch ly giao cho tỳ nữ, khi Hải Triều nhìn thấy gương mặt nàng thì thật sự kinh hãi. Nàng thật sự không tìm ra được từ ngữ nào để hình dung, diện mạo Trịnh nương tử trắng trẻo thanh tú, vốn là một giai nhân thanh lệ, nhưng chỉ giới hạn ở nửa bên phải. Nửa khuôn mặt bên trái, da thịt nhăn nhúm trắng bệch, méo mó vặn vẹo, không có lông mi lông mày, trông như một bức tượng quái lạ, rõ ràng là dấu vết bỏng lửa để lại.

Nàng dường như đã quen với những ánh nhìn kinh ngạc, không hề tức giận, chỉ đưa tay che mắt Hải Triều, lại khẽ xoa gương mặt nàng, rồi thẳng lưng quay người đội đấu lạp lại, tiếp tục ra dấu với tỳ nữ.

Tỳ nữ quay sang Quách nương tử nói: “Nương tử hỏi, sao ở đây lại thiếu hai đứa trẻ?”

Quách nương tử khẽ động mày, thành thật bẩm: “Một đứa bị tái phát bệnh hen suyễn, đang ở bệnh phòng tĩnh dưỡng. Đứa còn lại…”

Tỳ nữ nhướng mày: “Đứa còn lại thì sao?”

Quách nương tử nói: “Đứa bé ấy sáng nay lén ra ngoài đi nhà xí, rồi không thấy trở về.”

“Đang yên lành sao lại biến mất? Các ngươi đã phái người tìm kỹ chưa?” Giọng tỳ nữ nghiêm hẳn.

“Đã tăng thêm người tìm rồi, phương trượng cũng đã phái người vào núi lùng kiếm…”

Đúng lúc này, một vị tăng trẻ mặc áo cà sa năm vạt hối hả chạy dọc theo con đường nhỏ bên cạnh đến, thở hổn hển: “Quách thích chủ… đứa… đứa trẻ ấy… tìm… được rồi… trong khe núi…”

Hải Triều nhìn sắc mặt hốt hoảng của vị tăng, biết là chẳng phải chuyện lành. 

Tỳ nữ hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì? Đứa trẻ ấy còn sống không?”

Vị hòa thượng thoáng do dự, liếc nhìn Quách nương tử, rồi chắp tay niệm một tiếng Phật hiệu, lắc đầu: “Khi bần tăng và sư huynh tìm đến, thân thể nó đã lạnh cứng… lại còn bị dã thú trong núi gặm xé đến nỗi không ra hình người nữa…”

Trịnh nương tử run rẩy, trông như sắp ngất, tỳ nữ vội đỡ lấy: “Nương tử không thể nghe mấy chuyện này.”

Trịnh lang quân chú ý thấy bên thê tử có điều khác lạ, thì thầm mấy câu với nữ nhi, rồi xoay người bước đến hỏi Quách nương tử: “Có chuyện gì?”

Sắc mặt Quách nương tử tái nhợt, đem việc kể lại một lượt. 

Lang quân trầm ngâm giây lát, rồi bảo tỳ nữ dìu thê tử vào tịnh xá nghỉ ngơi, căn dặn nhà sư kia: “Trước hết đem thi thể đứa trẻ về chùa, đừng để truyền ra ngoài.”

Đợi Trịnh nương tử rời đi, hòa thượng kia lại nói: “Còn một việc, bần tăng nhất định phải bẩm với Trịnh thí chủ.”

“Việc gì?” Trịnh lang quân hỏi.

“Bần tăng nhìn thấy trên áo đứa bé có ba vết máu…”

Nghe vậy, sắc mặt mấy người lập tức thay đổi. 

Quách nương tử lấy tay che miệng: “Chẳng lẽ… yêu vật kia không phải vẫn đang quấy trong thành sao? Sao lại xuất hiện ở chốn này…”

Khuôn mặt Trịnh lang quân không giấu được vẻ trầm trọng, liếc qua đám trẻ còn đang ngơ ngác, rồi nói với Quách nương tử: “Trước hết đưa bọn nhỏ về, ban đêm phải cho người canh giữ. Nếu quả thật là thứ đó, e rằng chuyện này chưa dừng ở đây.”

***

Chương tiếp theo