Mộng hồi Tây Châu – Chương 146

Chương 146: Cô Hoạch Ca (14)

***

Quách nương tử mở to đôi mắt đỏ ngầu, lao tới túm chặt vai đứa bé: “Ngươi còn nghe thấy gì nữa?”

Tiểu cô nương đau đến kêu thành tiếng, vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, liên tục lắc đầu, lắp bắp: “Con… con chỉ nghe thấy thế thôi…”

Quách nương tử dường như nhận ra mình thất thố, buông tay ra rồi lẩm bẩm tự nói: “Chỉ có thế? Không nghe thấy gì khác sao?”

Đứa bé hiển nhiên bị dọa sợ, gương mặt trắng bệch, lí nhí: “Không có… sau đó con ngủ mất rồi…”

“Ngươi thật sự nghe thấy A Thủy gọi ‘tỷ tỷ’ sao? Có nhầm không? Hay là nằm mơ?” Quách nương tử vội hỏi.

Tiểu cô nương hoảng loạn lắc đầu, rồi lại gật đầu, giọng lẫn tiếng khóc: “Con… con cũng không biết…”

Liêu mụ mụ len lén quan sát Quách nương tử, trong mắt hiện lên vẻ ngạc nhiên xen lẫn nghi ngờ, dè dặt tiến lên hỏi: “Nương tử, người không sao chứ?”

Quách nương tử như chợt bừng tỉnh, cúi đầu dùng mu bàn tay dụi mắt: “Không sao, chỉ là hơi mệt thôi.”

Khi ngẩng đầu lên, vẻ mặt nàng đã khôi phục bình thường, lặng lẽ như mặt nước chết, chỉ còn lưu nét mệt mỏi trên gương mặt.

Nàng nói với Liêu mụ mụ: “Ta phải đem chuyện đêm qua bẩm lại với lang quân. Ngươi trông nom bọn chúng cho tốt, dùng cơm sáng xong đừng quên dẫn mấy đứa trẻ kia đến để phu nhân xem mặt.”

Hải Triều chú ý thấy, khi nàng nói đến hai chữ “phu nhân”, đầu mày khẽ giật, như thể bị mũi kim châm bất ngờ.

Quách nương tử dặn dò xong, chẳng chờ Liêu mụ mụ đáp đã quay người nhanh chóng rời khỏi phòng.

Mưa rơi suốt một đêm, mặt đất vẫn còn lầy lội. Lũ trẻ ở Bi Điền Phường xắn cao ống quần, từng tốp nối nhau về phía nhà ăn.

Đi được nửa đường, mặt trời phá mây mà ló dạng, giọt sương còn đọng trên lá cỏ lá cây lấp lánh như châu báu.

Bầu không khí u ám do A Thủy mất tích dường như cũng tan đi phần nào. Không ít đứa trẻ đã sớm quên bẵng chuyện này, lại tung tăng nô đùa, chạy nhảy huyên náo như thường, có đứa tinh nghịch dẫm xuống vũng nước, bắn tung bùn lầy khiến mấy đứa khác kêu la chí chóe.

Chỉ có Hải Triều là chẳng thể nào nhẹ nhõm, trong bụng như chèn đầy tảng đá lạnh băng; Lương Dạ và Lục Uyển Anh cũng mang nét mặt nặng nề.

Hôm nay Trình Hàn Lân lại giành được việc chia cháo, thừa dịp sư huynh không chú ý, hắn cầm một mảnh giẻ giả vờ lau bàn ăn, rồi lặng lẽ ghé tới, khẽ nói: “Nghe đồn tối qua ở Bi Điền Phường có một đứa bé bị yêu quái bắt đi, thật thế sao?”

Hải Triều thoáng kinh ngạc: “Tin truyền nhanh vậy ư?”

“Vậy thì đúng là thật rồi?”

Hải Triều gật đầu: “Đứa bé tên A Thủy biến mất rồi.”

Nói đoạn, nàng kể lại chuyện đêm qua nghe thấy tiếng hát quái dị, rồi sau đó bị cơn buồn ngủ ghì chặt.

Trình Hàn Lân chau mày gãi má, vẻ phiền não: “Con yêu quái này hát một khúc thôi đã khiến người ta mê ngủ, thì chúng ta làm sao chống lại được? Nếu nó nhắm vào chúng ta, chẳng phải chỉ còn biết bó tay chịu trói hay sao?”

Không ai đáp lại hắn, Hải Triều thì cảm thấy tảng đá trong bụng lại càng lạnh, càng nặng. Nàng đặt chiếc muỗng xuống bát gốm, cháo trong bát vẫn còn hơn nửa, mà nàng đã chẳng muốn ăn chút nào.

Lương Dạ hỏi: “Tiều phu kia khi nào sẽ tới đưa củi?”

“Ta hỏi sư huynh rồi, thường thì là buổi chiều, muộn thì phải đến tận chạng vạng.” Trình Hàn Lân thở dài, “Đôi tỷ muội này số khổ thật, tỷ tỷ chết đuối, muội muội lại bị Cô Hoạch Điểu bắt đi, đúng là họa vô đơn chí. Sao đến cả yêu quái cũng chỉ biết bắt nạt kẻ yếu, cứ nhằm vào người đáng thương mà ức hiếp…”

“Cũng không hẳn thế.” Hải Triều nói, “Trong nhà họ Trịnh cũng có một cô nương bị Cô Hoạch Điểu nhắm trúng, vì để tránh họa nên bọn họ mới chạy trốn vào núi.”

Trình Hàn Lân lần đầu nghe chuyện này, kinh ngạc mở to mắt: “Thật sao? Là tỷ tỷ hay muội muội?”

“Không rõ nữa.” Hải Triều đáp, “Hôm nay chúng ta sẽ đến viện nhà họ Trịnh, lúc ấy tìm cách dò hỏi thêm.”

Trình Hàn Lân chau mày, dường như có điều gì đó nghĩ ngợi.

“Có chỗ nào không ổn sao?” Lương Dạ hỏi.

“Không có gì.” Trình Hàn Lân hoàn hồn, “Ta chỉ nghe nói, những đứa trẻ bị Cô Hoạch Điểu vẩy máu dính lên áo, thì trong vòng ba ngày nhất định sẽ bị bắt đi. Mà từ Kiến Nghiệp tới đây, đường xa hai ba trăm dặm…”

Bọn họ mang theo trẻ nhỏ, tuyệt không thể đi nhanh được, dẫu cho hôm đó lập tức khởi hành, thì nay cũng đã qua kỳ hạn ba ngày rồi…

“Chẳng lẽ Cô Hoạch Điểu bay chậm?” Hải Triều vò tóc, thắc mắc.

Lục Uyển Anh lắc đầu: “Vậy thì giải thích thế nào về chuyện của Lâm Tam Lang?”

“Đúng rồi, suýt nữa quên mất hắn…” Hải Triều càng thêm hồ đồ, chẳng sao nghĩ cho rõ được.

Trình Hàn Lân bỗng bật “a” một tiếng, cắt ngang suy nghĩ của nàng: “Sư huynh gọi ta rồi, ta phải đi đây…”

Hắn làm bộ ra sức lau dọn chiếc bàn ăn lớn nơi Hải Triều bọn họ ngồi, miệng vẫn thì thầm: “Chờ khi tiều phu tới, ta sẽ tìm cách hỏi thăm chuyện tỷ tỷ của A Thủy.”

Lương Dạ gật đầu: “Còn một chuyện nữa, phiền huynh dò la giúp.”

“Tử Minh cứ căn dặn.”

“Ta muốn biết lai lịch của Đàm Viễn: xuất gia khi nào, thời gian nào tới Chiêu Minh Tự, trước khi xuất gia vốn xuất thân từ đâu, càng chi tiết càng tốt.”

Trình Hàn Lân chau mày, vẻ kinh ngạc: “Lẽ nào Tử Minh nghi ngờ Đàm Viễn sư huynh? Người ấy xưa nay thẳng thắn, trượng nghĩa, trông chẳng giống kẻ xấu… chuyện này e là khó…”

“Ta chỉ trùng hợp biết được, hai năm trước khi đứa bé kia xảy ra chuyện, hắn lại không có mặt ở chùa. Bởi vậy mới muốn huynh thăm dò một phen.” Lương Dạ điềm nhiên đáp.

Nghe vậy, Trình Hàn Lân mới yên tâm, khẽ gật đầu: “Nói đến thì Đàm Viễn sư huynh đích thực có chút khác biệt với những người trong chùa… Ta sẽ dò hỏi, hẳn là có thể biết được.”

“Chỉ là chớ để hắn phát giác.” Lương Dạ nói.

Trên mặt Trình Hàn Lân thoáng qua vẻ lưỡng lự, nhưng rồi vẫn gật đầu.

Dùng cơm sớm xong, đám trẻ khác đều quay về Bi Điền Phường, chỉ còn sáu đứa trong nhóm Hải Triều được chọn, do một a hoàn dẫn đi yết kiến Trịnh phu nhân.

Trịnh phu nhân đang ở phòng nghỉ phía đông, a hoàn dẫn bọn họ đến trước thềm.

Trong viện, ve sầu kêu ran ran, càng khiến vẻ tịch mịch thêm sâu.

Dưới hành lang có một cái chum sứ xanh, bên trong nuôi một khóm sen kiều diễm, nụ hoa hé nửa, cánh còn mang sắc xanh nhạt, tỏa ra mùi hương thanh khiết.

Gió nhẹ khẽ vén màn trúc trước cửa, trong phòng đặt một chậu băng, luồng khí mát mẻ len lỏi từ khe hở tràn ra, thoáng chốc đã tan biến trong cái nóng oi ả của ngày hè.

Ngay cả bọn trẻ cũng cảm nhận được nơi này phảng phất vẻ thanh nhã u buồn, không tự giác mà bước chân khẽ khàng, như thể chỉ cần sơ ý là sẽ đánh vỡ một thứ mong manh trong suốt nào đó.

A hoàn bước lên bậc thềm, hơi cúi người, cách rèm nhẹ giọng bẩm: “Phu nhân, nô tỳ đã đưa bọn trẻ ở Bi Điền Phường đến rồi…”

Từ trong rèm vọng ra một giọng trong trẻo: “Cho vào.”

A hoàn quay đầu, dùng ánh mắt ra hiệu cho bọn trẻ phải nghiêm chỉnh, rồi mới vén màn cho bọn chúng vào. Sau khi hành lễ với Trịnh phu nhân, nàng ta còn lấy lòng chào hỏi tỳ nữ đứng bên cạnh: “Bách Trạc tỷ tỷ, dạo này có khỏe không?”

Tỳ nữ tên “Bách Trạc” kia vô cùng kiêu ngạo, chỉ lạnh nhạt gật đầu một cái.

Hải Triều đưa mắt nhìn quanh, thấy gian phòng không lớn, song bày biện rất có phong nhã. Có lẽ do đang mùa hè, nên trong phòng phần nhiều dùng đồ tre: giường trúc đặt trước cửa sổ, kệ sách dựa vách cũng làm bằng ống tre, phối cùng bồ đoàn và những tấm vải gai màu trắng nhạt tự nhiên, đơn sơ đến mức gần như lạnh lẽo.

Chỉ có chiếc bình hoa làm từ gốc tre già trên bàn cắm mấy nhành hoa đăng tiêu đỏ tươi rủ xuống, sắc hoa đỏ như chu sa, phản chiếu với dung nhan tươi tắn như bình minh của tỳ nữ trẻ bên cạnh, gần như trở thành màu sắc duy nhất trong căn phòng.

Trịnh phu nhân ngồi sau án thư, tay cầm bút, trước mặt là bức trường quyển viết dở. Bà mặc áo mỏng la tơ màu tím khói, môi điểm chút son đỏ, song chẳng rõ vì cớ gì, lại cho người ta một cảm giác tựa như không màu, đường nét vẽ ra chẳng khác nào mực nhạt.

Thế nhưng không một ai có thể xem thường sự tồn tại của bà. Nguyên nhân chẳng đâu khác bởi vì nửa khuôn mặt bị bỏng cháy kia quá đỗi kinh tâm động phách. Dù Hải Triều đã từng thấy một lần, trong lòng vẫn không kìm nổi run rẩy, như thể ngọn lửa năm xưa thiêu cháy Trịnh phu nhân đã xuyên qua thời gian, xuyên qua vết sẹo, bỏng rát cả mắt nàng.

Nàng bối rối, vội dời mắt nhìn về chồng sách chất cao như núi bên bàn.

Ở đây thật nhiều sách, trên kệ cũng xếp chồng chất, tựa như núi biển. Cho dù đây chỉ là sân viện thỉnh thoảng nghỉ ngơi giữa núi rừng, mà đã có nhiều sách vở đến thế, lại càng khiến người ta kinh ngạc.

Trịnh phu nhân đặt bút xuống, mỉm cười nhìn nàng, rồi làm mấy động tác thủ ngữ với a hoàn.

A hoàn nói: “Phu nhân hỏi ngươi đang nhìn gì vậy?”

Hải Triều thành thật đáp: “Là sách… ở đây thật nhiều sách!”

A hoàn của Bi Điền Phường lập tức như lâm đại địch, vội che miệng ho nhẹ một tiếng.

Trịnh phu nhân khẽ mỉm cười, nửa khuôn mặt còn nguyên vẹn dịu dàng đoan trang, lúm đồng tiền nhàn nhạt thoáng hiện; nhưng nửa gương mặt kia vì cơ thịt co giật mà càng thêm dữ tợn kinh người.

Bách Trạc nhìn thủ ngữ của bà, nói với tỳ nữ: “Phu nhân nói không sao cả, hè nóng oi ả, vất vả ngươi đi tới đi lui. Dưới bếp có mơ ướp lạnh với sữa đông, ngươi hãy đi ăn một chút. Phu nhân muốn nói vài lời với bọn trẻ.”

Tỳ nữ kia do dự liếc Hải Triều một cái, hiển nhiên e sợ nàng lỡ miệng gây họa, nhưng lại chẳng tiện trái lệnh chủ nhân, đành tạ ơn rồi hành lễ rồi lui ra ngoài.

Người vừa đi khỏi, Trịnh phu nhân sai Bách Trạc lần lượt hỏi tên tuổi, đọc sách tới đâu, nhận biết bao nhiêu chữ.

Đến lượt Hải Triều, nàng ngượng ngùng gãi mũi: “Con thường ngày chẳng chịu chăm học, Nữ Giới chưa thuộc hết được, chữ cũng chưa nhận hết…”

Lông mày lá liễu của Bách Trạc lập tức nhíu chặt, nhưng Trịnh phu nhân lại ngoắc tay, ra hiệu Hải Triều bước tới bên mình, dùng quạt giấy chỉ tùy tiện vào một câu trên trường quyển vừa chép.

Bách Trạc truyền đạt: “Phu nhân bảo ngươi thử đọc câu này.”

Trong câu ấy không có chữ nào khó, Hải Triều liền đọc trôi chảy: “Khổng Tử nói: ‘Ngũ hình có đến ba nghìn tội, nhưng không tội nào lớn bằng bất hiếu.’”

“Chẳng phải rất tốt sao?” Bách Trạc thay phu nhân khen ngợi.

Trịnh phu nhân đưa ngón tay khẽ chạm chóp mũi hơi hếch của Hải Triều, lại làm vài thủ ngữ.

Bách Trạc nói: “Phu nhân hỏi ngươi có biết đây là sách gì không?”

Hải Triều lắc đầu.

Bách Trạc lại nhìn sang mấy đứa trẻ khác: “Có ai biết không?”

Ánh mắt Trịnh phu nhân rơi lên người Lương Dạ, Bách Trạc lập tức hiểu ý: “Ngươi gọi là A Dạ phải không? Nghe A Quách khen ngươi thông minh lắm, ngươi có biết chăng?”

Lương Dạ khẽ gật đầu: “Hồi bẩm phu nhân, đó là Hiếu Kinh, thiên thứ mười.”

Trịnh phu nhân khẽ gật đầu, tỏ vẻ tán thưởng.

Bách Trạc vừa như giải thích vừa như tự nói: “Đây là phu nhân chép sách để cho Đại Lang học. Vốn dĩ tiểu lang quân nên học thứ cao thâm hơn, nhưng ở đất Ngô lỡ dở mất mấy năm, đến giờ mới bắt đầu học Hiếu Kinh. Ngươi đã từng học qua thì thật là thích hợp.”

Trịnh phu nhân hơi nhấc tay, Bách Trạc liền ngừng lời, lại nhìn thủ ngữ rồi nói: “Phu nhân nói, bệ hạ trị quốc bằng hiếu, người hầu hạ Đại Lang tất phải nhắc nhở tiểu lang quân đọc kỹ thuộc lòng, ghi khắc vào tâm mới được.”

Trịnh phu nhân nhấc quyển trục lên, đặt sang bên ghế, lại cầm một tờ giấy mới.

Bách Trạc nói: “Phu nhân muốn xem chữ của các ngươi.”

Ngón tay Trịnh phu nhân gõ nhẹ trên án, trầm ngâm giây lát, rồi ra hiệu.

“Phu nhân nói, hãy viết chữ ‘Hiếu’, nhưng phải viết lộn xộn theo thứ tự khác nhau.”

Nói rồi, chủ tớ hai người đều quay lưng lại. Đám trẻ chẳng hiểu ra sao, nhưng vẫn nghe lời, lần lượt bước lên viết.

Lương Dạ thiên tư bất phàm, lại khổ luyện mấy năm; Lục Uyển Anh thì bốn tuổi đã khai trí, có hơn mười năm công phu, dĩ nhiên không thể so với bọn trẻ bình thường. Cả hai dẫu có cố ý giấu tài, nét chữ vẫn nổi bật.

Hải Triều cũng nổi bật, chỉ có điều là nổi bật… khó coi đến mức khiến người ta vừa nhìn đã không thể quên.

Trịnh phu nhân xem xong sáu chữ “hiếu”, đổi sang một cây bút mới, chấm chu sa trong đĩa sứ, khoanh tròn chữ của Lục Uyển Anh.

Bách Trạc giải thích: “Lang quân cùng phu nhân đã định, sẽ chọn ra ba người trong các ngươi, để hầu hạ ba vị tiểu chủ đọc sách học tập.”

Nàng ngừng lại một chút rồi nói tiếp: “Phu nhân bảo, kẻ viết ra chữ này, có thể hầu hạ Đại Nương.”

Trong lòng Hải Triều khẽ chấn động, thì ra đến đây còn có một lần khảo nghiệm cuối cùng, mà cách thức khảo nghiệm lại đặc biệt lạ lùng: dùng chữ để chọn người.

Chẳng khác nào có người dội cho nàng một gáo nước lạnh xuống đầu, nếu xét dung mạo, nàng còn có thể chen được một chỗ; nhưng xét chữ viết, ắt là kẻ đầu tiên bị loại.

Sớm biết vậy, nàng đã nên nhờ Lương Dạ hoặc Lục tỷ tỷ viết thay rồi.

“Ta… ta có thể viết lại được không?” Nàng không nhịn nổi mà cất tiếng.

Bách Trạc kinh ngạc nhìn nàng một cái.

Trịnh phu nhân lại khẽ mỉm cười, buông bút, làm mấy thủ ngữ.

Bách Trạc nói: “Phu nhân hỏi, ngươi viết lại thì có chắc viết đẹp được không?”

Trịnh phu nhân lại cầm bút, chẳng hề do dự mà khoanh tròn chữ “hiếu” xiêu vẹo, ngoằn ngoèo, đến mức giống như vũ nhục chữ hiếu kia.

Bách Trạc ngạc nhiên đến há miệng, miễn cưỡng nói: “Phu nhân bảo ngươi hầu Nhị Nương học tập.”

Hải Triều tròn mắt, miệng hơi hé ra, nửa ngày không khép lại được.

Còn lại một suất cuối cùng, Hải Triều vốn tưởng Lương Dạ tất sẽ trúng, nào ngờ bút trong tay Trịnh phu nhân lại dừng lơ lửng, thật lâu chẳng hạ xuống.

Ánh mắt nàng ở giữa hai chữ “hiếu” do dự hồi lâu, đến tận khi mực chu sa ở đầu bút gần như khô cạn, mới vẽ một vòng khô héo, miễn cưỡng quanh chữ của Lương Dạ.

Hải Triều thực sự toát mồ hôi lạnh, mãi đến lúc ấy mới nhẹ nhõm thở ra. Nhưng chợt nghĩ đến vị Trịnh tiểu lang thần trí thất thường kia trong lòng lại chìm xuống, vốn có hai đứa trẻ cùng hầu thì còn dễ bề nương tựa, nay chỉ còn lại một mình Lương Dạ, chẳng biết có gặp nguy hiểm hay không.

Lương Dạ thì từ đầu đến cuối sắc mặt vẫn bình thản, như thể việc chọn ai chẳng liên can gì tới mình.

Trịnh phu nhân chọn xong người, gật đầu ra hiệu với Bách Trạc. Bách Trạc xoay người đi ra, chẳng bao lâu liền có vài a hoàn bưng ba phần lễ vật tiến vào.

Mỗi phần gồm hai tấm lụa trắng, một bộ bút mực giấy nghiên, thêm một hộp bánh ngọt.

Ban đầu Hải Triều còn tưởng là ban thưởng cho bọn họ, nào ngờ Trịnh phu nhân lại thưởng những thứ ấy cho ba đứa trẻ bị loại, rồi sai a hoàn Bi Điền Phường đưa chúng về. Sau đó lại gọi ba a hoàn tới, lần lượt dẫn ba người trúng tuyển đến gặp từng vị tiểu chủ của mình.

Rời khỏi thiền viện của Trịnh phu nhân, Hải Triều lén ghé sát bên tai Lương Dạ: “Ngươi thấy vị phu nhân này thế nào?”

Lương Dạ trầm ngâm một hồi mới đáp: “Người có tâm tư sâu xa.”

“Nói tiếng người đi.” Hải Triều thẳng thắn, “Ngươi cứ nói nàng là người tốt hay kẻ xấu là được.”

Lương Dạ khẽ lắc đầu: “Không biết.”

***

Chương tiếp theo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *