Ta là chướng ngại vật của vai ác – Chương 6

Hồi thứ sáu

Lý do A nương quyết định chuyển nhà, quả nhiên là vì vấn đề ăn uống của Thạch Chân.

Từ lúc “phá xác” chào đời, Thạch Chân chưa từng khóc một tiếng, luôn ngoan ngoãn hiểu chuyện, hệt như một “tiểu đại nhân”. A nương và A cha cứ tưởng con mình trời sinh đã “trầm ổn ít nói”, nào ngờ trong thân xác ấy lại cư ngụ một linh hồn “người lớn” thật sự.

Mà người lớn này, kiếp trước còn là nhân tộc, lại thêm một cái “dạ dày kén ăn”.

Thế nên, khi lần đầu Thạch Chân được ăn nguyên liệu thuộc về nhân tộc cũng chính là cơm trắng thì khóc nức nở, A nương A cha thực sự bị dọa cho hoảng sợ.

Tất nhiên, họ không hề biết, những giọt nước mắt ấy có lẽ còn cất giấu nguyên nhân phức tạp hơn nhiều. Trong mắt họ chỉ thấy đứa bé ngoan ngoãn, dễ thương, nhỏ nhắn kia vì ăn một miếng cơm mà òa khóc thành dòng.

A nương vốn cũng đoán được phần nào, vì vậy mới vượt trăm dặm đến trấn Huyền Nguyệt mua kê mễ của nhân tộc. Phản ứng của Thạch Chân càng khiến A nương tin chắc suy đoán của mình: tiểu Thạch Chân chỉ thích ăn đồ ăn của nhân tộc.

A cha bèn tra hoàng lịch: năm Giác Thương Manh, tháng ba mươi lăm, ngày hai mươi tư, việc cát tường: dọn vào nhà mới, an giường lập bếp, nạp tài mở kho.

A nương hành sự quyết đoán, chưa đến hai canh giờ đã thu xếp xong toàn bộ gia sản, đánh xe rời làng.

Quả nhiên đúng như hoàng lịch nói, là ngày đẹp để xuất hành. Ngẩng đầu nhìn thấy sóng lục ngút ngàn, mây vàng trôi nhẹ theo gió, nhưng trời thì nắng chói chang.

Hàng xóm láng giềng đến tiễn phần lớn vốn là linh tộc nguyên hình thực vật, bị nắng chiếu đến héo rũ, yếu ớt trò chuyện cùng A nương những lời đưa tiễn. Cây Tùng tinh vỗ vai A cha, tay áo kéo dài lau nước mắt, định đọc vài câu thơ tiễn biệt cho ra dáng, nhưng A cha liên tục kêu ê răng, đành từ chối khéo.

Trưởng thôn cùng ba vị trưởng lão khác đi tế đàn tại Ninh Châu dự đại hội niên, chưa kịp trở về, bèn ủy thác Hiên Viên trưởng lão ở lại toàn quyền đại diện tiễn đưa.

Thạch Chân nhân cơ hội trả lại tất cả tư liệu tham khảo cho Hiên Viên trưởng lão, còn tặng thêm một bản công thức phiên dịch lịch pháp giữa hai tộc nhân linh, quá trình suy diễn công thức cũng được ghi chép tỉ mỉ trong quyển sổ nhỏ, dùng chỉ đỏ buộc thành nơ bướm, trông rất có lễ nghĩa.

Hiên Viên trưởng lão lật sơ qua một lượt, râu mép dựng đứng vì kinh ngạc, nhìn chằm chằm Thạch Chân một lúc lâu rồi mới thốt ra được một câu: “Thật là con tự tính ra sao?”

Thạch Chân khiêm tốn đáp: “Chỉ dùng cho nghiên cứu học thuật cá nhân, nếu trong quá trình sử dụng xảy ra sai số dẫn đến hậu quả không tốt, con hoàn toàn không chịu trách nhiệm.”

Trưởng lão nhìn Thạch Chân, lại nhìn cuốn sổ trên tay, sắc mặt ngưng trọng, lùi lại hai bước, nghiêm cẩn hành lễ với Thạch Chân: “Hậu sinh khả úy, lão phu hổ thẹn không bằng.”

Thế là ba người nhà Thạch Chân lên đường, xe ngựa lắc lư chạy trên đường làng khúc khuỷu, điểm đến là trấn Huyền Nguyệt cách đó năm trăm dặm.

Đường sá xa xôi, lại là lần đầu đi xe ngựa, Thạch Chân suốt dọc đường gần như gối đầu ngủ gật trong lòng A nương, ý thức theo bánh xe mà lên lên xuống xuống, lắc lư mơ màng, thỉnh thoảng còn được A nương đút vài miếng ăn.

Mấy ngày đầu chỉ có thể ăn “linh tố tịnh thực” đặc chế cho tộc tinh linh mang theo, vừa khó ăn lại say xe, cứ hai miếng nuốt vào thì ba miếng ói ra, Thạch Chân lại sụt mất ba cân.

Qua bảy tám ngày, hai bên đường lớn dần xuất hiện nhân tộc cư trú rải rác, Thạch Chân được ăn cháo kê, bánh ngô thô, thậm chí may mắn còn được nếm khoai nướng nóng hôi hổi, suýt nữa bật khóc ngay tại chỗ.

Lại qua nửa tháng, nhân tộc tụ cư ngày càng nhiều, Thạch Chân được gặm bánh nướng, ăn ngấu nghiến, miệng dính đầy mè đen, A nương A cha mừng đến phát khóc.

Rốt cuộc, sau bốn mươi ngày kể từ lúc khởi hành, cả nhà ba người đặt chân đến nơi A nương gọi là “trấn Huyền Nguyệt”.

Trên đường đi, Thạch Chân cẩn thận nhớ lại, trong nguyên tác tuyệt nhiên không nhắc tới cái tên “trấn Huyền Nguyệt”, có lẽ là nơi không quá quan trọng, từ một góc độ nào đó, khả năng xuất hiện nhân vật phản diện cũng không cao.

Nhưng thực tế, trấn Huyền Nguyệt là nơi cư trú hỗn hợp lớn nhất giữa nhân tộc và linh tộc trong cảnh nội Ninh Châu, vị trí địa lý đặc biệt, được đặt tên theo loài cây Huyền Nguyệt từng phát triển hưng thịnh tại đây. Truyền rằng, cây Huyền Nguyệt mỗi năm nở hoa mười hai mùa, cánh hoa lam nhạt, nhụy kết hình lưỡi liềm, đến đêm trăng tròn sẽ kết thành quang cầu, tựa vầng nguyệt sáng, nên mới gọi là “Huyền Nguyệt”.

Hai trăm năm trước, vì đứt gãy long mạch, ngàn cây Huyền Nguyệt trong trấn một đêm khô héo, từ đó cảnh tượng “Huyền Nguyệt mười hai xuân” cũng tuyệt tích theo.

Dân cư trú trong trấn khoảng một vạn người, trong đó bốn phần năm là nhân tộc, linh tộc đa phần là thương nhân. Từ quan đạo vào trấn, cách năm dặm đã thấy tường thành cao lớn, tấm biển đá khắc chữ “Huyền Nguyệt” treo lơ lửng trên cổng thành, khí thế phi phàm.

Lúc vào thành có binh lính kiểm tra lệnh bài, xếp hàng khá tốn thời gian. Cổng thành đối diện một đại lộ rộng thênh thang, lát đá thanh sạch bóng, bên trái có biển chỉ đường ghi “phố Lãm Nguyệt”.

Hai bên đường toàn cửa hiệu, nhìn kiến trúc và phong cách bài trí dễ dàng phân biệt đâu là nhân tộc mở, đâu là linh tộc dựng.

Cửa hàng của nhân tộc thường là các lầu gác mái đen tường trắng, cờ xí tung bay. Tiệm của linh tộc phần nhiều là nhà cây cổ mộc, vách ngoài phủ đầy dây leo xanh, hoa nở rực rỡ.

Tiệm cầm đồ, trà quán, bách hóa, hàng trái cây, hàng linh khí, tiệm may, tiệm pháp y, tiệm ngân lượng… cái gì cũng có. Những người bán hàng rong gánh gồng len lỏi trong ngõ ngách, tiếng rao trầm bổng, người qua kẻ lại đông nghịt, ồn ào náo nhiệt.

Thạch Chân dán mặt vào khung cửa sổ, nhìn đến hoa cả mắt. Trước mặt có người dắt một con lạc đà hồng rực, ừm, bình thường. Bên trái một phụ nhân cưỡi đà điểu vàng óng to lớn, ồ, oai phong ghê! Bên cạnh có khách lữ hành dắt một con ngựa xanh lam, đuôi trắng như tuyết phất tới phất lui, khoan đã, giữa trán con ngựa có một cái sừng bạc… kỳ lân một sừng?!

Thạch Chân không nhịn được đưa tay ra định sờ, bị A nương kéo giật lại.

“Đó là ngọc giác lân thú, tính khí không tốt, hay phun nước bọt. Nước bọt có độc, dính vào sẽ phồng rộp, đau nhức ngứa ngáy, tránh xa một chút.”

Thạch Chân vội kéo cổ áo che kín mặt, chỉ để lộ đôi mắt đảo quanh liên tục.

Phía trước hình như là khu ăn uống của chợ, đủ loại tửu quán, trà lâu, quán nhỏ chen chúc hiện ra: bánh bao, bánh hoa cuốn, màn thầu nước sốt, bánh mật, bánh mai hoa, bánh bạch linh, cơm gói lá sen, bánh mè, anh đào bì lạc, cá hầm sốt đỏ… Một tấm biển đỏ to đùng tung bay theo gió, viết năm chữ lớn: Hỏa Linh nướng Thịt Xiên.

Thạch Chân hình như ngửi thấy mùi thịt nướng, mơ hồ thấy thì là và ớt bay trong gió, thậm chí còn ảo giác nghe được tiếng xiên thịt cháy xèo xèo trên than hồng, nước miếng trào đầy miệng, bụng cũng réo ọc ọc.

Thịt! Là thịt! Nàng muốn ăn thịt!

Thế mà xe ngựa chẳng chút nể tình phóng thẳng qua chợ, hai tay Thạch Chân bám khung cửa, mắt dõi theo thịt nướng khuất dần, bụng im re, đầu cũng cụp xuống.

Xe rẽ vào một con phố dài vắng vẻ hơn, dừng trước một ngôi nhà.

Vẻ mặt A nương kích động, A cha hiếm khi thay áo dài chỉnh tề, ôm Thạch Chân xuống xe, ngẩng đầu ưỡn ngực đứng cạnh A nương, cứ như một chiến sĩ sắp ra trận.

Trước mắt là một phủ đệ cao lớn, cổng đỏ xà vàng, tấm biển treo đúng một chữ “Oa”. Trước cổng treo hai chiếc đèn cung bằng lụa ngũ sắc tua rua cực lớn, trên không có dây, cứ thế lơ lửng giữa không trung. Đèn xoay tròn, mơ hồ phát ra linh quang, tựa ánh trăng lưu chuyển, đẹp mê hồn.

Thạch Chân mải mê ngắm nhìn, chẳng rõ lúc nào cánh cổng lớn được mở, mấy chục người ào ào ùa ra, dẫn đầu là một lão phụ nhân tóc bạc sang quý, chống gậy nhưng bước đi nhanh nhẹn, thoắt cái đã đến trước mặt A nương, lặng lẽ nhìn một lúc lâu.

A nương hơi sững lại, bật cười nói: “Tiểu Oanh, tóc ngươi bạc trắng rồi.”

Lão phụ nhân lập tức nước mắt như mưa, dẫn theo đám đông nam nữ già trẻ quỳ rạp xuống đất, miệng đồng thanh hô vang:

“Ngô thị nhất tộc, khấu bái cao tổ cô nãi, khấu bái cao tổ cô trượng, khấu bái tằng tổ cô nãi!”

Thạch Chân: Cao tổ? Tằng tổ? Ai vậy?

Mặt mày A nương hiền hòa phất tay: “Các con bình thân cả đi.”

Thạch Chân: … Đây là… vai vế thế nào vậy trời?

Ngô thị nhất tộc, tương truyền là hậu duệ của Nữ Oa thị và Hậu Nghệ, lấy tên tổ tiên làm họ, là một trong những gia tộc tu tiên danh tiếng của trấn Huyền Nguyệt.

Lão phụ nhân tên là Ngô Anh, tên tự Dạ Oanh, là gia chủ tiền nhiệm của Ngô thị, hiện đã lui về hậu đường, chức vị gia chủ hiện do trưởng tử Ngô Thù tiếp quản.

Gia chủ đầu tiên của Ngô thị tên là Ngô Tử Khê, là một tu sĩ. Hơn hai trăm năm trước từng cùng A nương – khi đó mới hóa hình, bôn tẩu giang hồ. Sau lại kết nghĩa kim lan cùng A nương, xem như nghĩa huynh của A nương.

Ngô Tử Khê là cụ cố tổ của Ngô Anh, nói cách khác, A nương là cô cố tổ cao tổ của Ngô Anh, còn Thạch Chân thì nghiễm nhiên mang danh phận “tằng tổ cô nãi”.

Phòng ở của Ngô Anh khá rộng rãi, chứa được hơn bốn mươi nhân khẩu của Ngô thị vẫn dư dả, có lẽ vì tuổi cao sợ lạnh nên còn đốt địa long sưởi, khiến ai nấy đều muốn lim dim ngủ.

Thạch Chân ngồi trên đùi A cha, lắng nghe A nương và Ngô Anh ôn chuyện cũ. Hai người nói chuyện rôm rả, tốc độ nhanh như gió cuốn, trong lúc ấy vô số nhân vật bên nội bên ngoại của Ngô thị thay phiên xuất hiện, nồi to nồi nhỏ nổ tung trời, Thạch Chân chật vật lắm mới lọc ra được đại khái như sau:

Ngô Tử Khê tuy là người tu hành, nhưng tuổi thọ chỉ đến tám mươi. Sau khi ông mất, Ngô thị từng vì tranh chấp trong ngoài mà nhiều phen lâm vào nguy cơ tồn vong. A nương vì tình nghĩa với nghĩa huynh nên đã nhiều lần ra tay tương trợ. Ngô Anh cũng nhờ được A nương nâng đỡ mới có thể ngồi lên vị trí gia chủ, vì vậy vô cùng kính trọng và biết ơn A nương.

Ngô Anh đã khóc hai trận, lúc này vẫn còn nắm tay A nương, lệ lưng tròng, vẻ mặt sùng bái, chẳng khác gì tiểu cô nương lần đầu gặp thần tượng:

“Mấy chục năm không gặp cao tổ cô nãi, người vẫn phong thái như xưa, lòng tiểu nữ mừng khôn xiết. Ta sinh muộn, chưa từng được gặp cao tổ gia khi còn sống, là tiếc nuối lớn nhất đời ta. May thay gần đây dọn dẹp tàng khố tổ tộc, phát hiện được một bức họa chân dung cao tổ gia lúc trẻ, vốn định tìm dịp viết thư báo tin cho cao tổ cô nãi, chẳng ngờ hôm nay người lại đích thân tới, đúng là duyên phận!”

Mắt A nương sáng rực rỡ: “Chân dung huynh trưởng Tử Khê? Có thể cho ta xem một chút chăng?”

Ngô Anh vui mừng khôn xiết, lập tức sai người đi lấy tranh.

Đoạn ôn chuyện cố tri tân dài lê thê, Thạch Chân ngồi trên đùi A cha ngáp một cái rõ to. Đột nhiên, A cha “hừm” nhẹ một tiếng trong cổ họng. Thạch Chân ngẩng đầu nhìn, thấy sắc mặt A cha vẫn đoan chính như thường, chẳng có gì bất ổn, chẳng lẽ là ảo giác của nàng?

Chẳng bao lâu, hai thị tòng mang họa đến, trải ra dài tám thước, gần như bằng kích cỡ người thật. Người trong tranh cao ráo, mặt vuông mày kiếm, mặc y phục hiệp khách, đứng trên mây lành, sau lưng là núi non trùng điệp, khí thế phi phàm.

A nương chậm rãi đứng dậy, chăm chú nhìn hồi lâu, rồi mỉm cười: “Đúng là huynh trưởng Tử Khê, vẽ không tệ.”

Một câu lại khiến Ngô Anh khóc ròng.

A cha lần này khẽ “chậc” một tiếng, Thạch Chân nghe rõ mồn một, còn thấy ngón tay A cha siết đến lách cách, gân tay trên mu bàn tay nổi lên giật giật.

Ánh mắt Thạch Chân đảo quanh giữa A cha, A nương và chân dung huynh trưởng Tử Khê.

Ấy chao ôi, hình như nàng vô tình đánh hơi được chút… mùi “cẩu huyết” thì phải?

Trình tự “hồi ức khổ đau, thấm đẫm tình thân” rốt cuộc cũng kết thúc, Ngô Anh chuyển chủ đề sang Thạch Chân. Có lẽ vì hình dạng hiện tại của Thạch Chân chỉ là một hài nhi ba tuổi, nên khi nhìn nàng, ánh mắt thiếu nữ mê thần tượng trên mặt Ngô Anh biến mất, thay vào đó là vẻ hiền hậu từ ái của trưởng bối.

“Lúc trước cao tổ cô nãi có gửi thư nói sẽ ở lại trấn Huyền Nguyệt vài năm, là vì tằng tổ cô nãi sao?”

A nương: “Đứa nhỏ này kén ăn, chỉ thích đồ ăn của nhân tộc.”

Ngô Anh kinh ngạc: “Sao lại như vậy?”

A nương nhún vai: “Trời sinh thế.”

Thạch Chân thầm nghĩ: Còn biết làm sao, kiếp trước ta là người, đã quen ăn đồ của người rồi, giờ sửa cũng không nổi.

Ngô Anh bật cười: “Tằng tổ cô nãi tuổi còn nhỏ, ham ăn một chút cũng chẳng sao, dù sao cũng không thể cả đời ăn đồ nhân tộc đâu, đúng không?”

A nương không đáp, chỉ khẽ thở dài.

Nụ cười của Ngô Anh vụt tắt, “Chẳng lẽ, tằng tổ cô nãi là…?!”

A nương nhẹ nhàng gật đầu. Ngô Anh trầm mặc, nhìn Thạch Chân, muốn nói lại thôi, cuối cùng cũng chỉ nặng nề thở dài.

Thạch Chân bật dậy, cái đầu nhỏ vểnh cao: Này này, cái vẻ mặt kia là có ý gì hả?

Ngô Anh vẫy tay, gia chủ đương nhiệm Ngô Thù bước lên hành lễ. Ngô Thù khoảng hơn bốn mươi, để râu dài, dáng người gầy gò, sắc mặt vàng vọt, có vẻ mang bệnh.

Ngô Anh nói: “Gọi Tiểu Ngũ vào đi.”

Ngô Thù gật đầu, bước nhanh ra ngoài, chẳng bao lâu sau dắt theo một tiểu cô nương khoảng bảy tám tuổi vào phòng.

Đứa bé mặt mày thanh tú, mặc trường sam xanh nhạt, tóc búi hai bên, buộc bằng dây tóc dài, cúi người chào hỏi từng người một, lễ nghi chu đáo, cử chỉ đoan trang, không thể bắt bẻ.

Ngô Anh kéo tay tiểu cô nương, chỉ về phía Thạch Chân: “Tiểu Ngũ, đây là tằng tổ cô nãi của con, con hãy dẫn người ra vườn dạo chơi, chớ để sơ suất.”

Tiểu Ngũ vui vẻ đáp lời, chạy tới nắm tay kéo Thạch Chân ra ngoài.

Khoảnh khắc bước qua ngưỡng cửa, Thạch Chân ngoái đầu lại nhìn, màn cửa rủ xuống nặng nề, che khuất đi ánh mắt mang sầu thương của A cha và A nương. Đó là thần sắc mà Thạch Chân chưa từng thấy qua.

*

Tiểu kịch trường

Thạch Chân: Rốt cuộc là chuyện gì vậy hả, có thể nói thẳng một lần không?!
Ghét nhất kiểu nói nửa chừng rồi ngưng! Gấp chết người ta!

***

Chương tiếp theo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *