Mộng hồi Tây Châu – Chương 1

Chương 1: Hải Triều

***

“Cái gọi là ‘dưới bảng vàng bắt con rể’ chẳng qua chỉ là một cách nói, vốn dĩ là hai bên đều thuận lòng, làm gì có chuyện ép buộc.”

“Thiên kim của Thị trung có tài văn chương như ngọc, dung nhan khuynh thành, với Lương Tử Minh quả là một đôi trời sinh.”

“Tại yến hội thám hoa bên hồ Khúc Giang, hai người họ dùng thơ xướng họa, vừa gặp đã động lòng, sao có thể nói là ép buộc?”

“Lão phu biết trước đây hai ngươi từng đính hôn, chuyện này là hắn phụ ngươi, lão phu là thầy hắn, thay mặt hắn xin lỗi ngươi một tiếng. Nhưng Tử Minh với ngươi…”

Lão thứ sử không nói tiếp, chỉ vuốt chòm râu bạc, chau mày, dùng đôi mắt đỏ ngầu nhìn chăm chú Hải Triều.

Hải Triều cúi đầu, nhìn đôi chân của mình.

Giữa móng chân dính đầy bùn đất, mu bàn chân và gót chân chi chít vết thương do dép cỏ cọ rách, có vết đã đóng vảy, có vết vẫn còn rỉ máu, máu trộn lẫn với bụi đất, bẩn đến mức không còn nhìn rõ màu da thịt vốn có.

Đây là đôi chân của một cô nương đi mò ngọc trai.

Nàng chợt hiểu ra lời mà Đô thứ sử chưa nói thành lời.

Nàng và Lương Dạ vốn không cùng một con đường.

Chữ lớn nàng còn chẳng biết đầy một giỏ, càng đừng nói đến việc cùng hắn xướng họa làm thơ.

Nhưng nàng vẫn không tin, bởi người đó là Lương Dạ, người nàng đã quen từ thuở còn nằm nôi, cùng nàng nương tựa suốt bảy năm trời, người mà nàng từng nghĩ sẽ chẳng bao giờ rời xa suốt đời.

Sau khi nhận được hưu thư do người mang đến từ chỗ Lương Dạ, nàng không cam tâm, cũng không tin, nên đi suốt ba ngày đường, đến tận châu thành, chỉ để hỏi cho rõ ràng với Đô thứ sử.

Đô thứ sử là ân sư của Lương Dạ, cũng là người phát hiện ra tài năng của hắn, nếu không có lời khẳng định từ chính miệng ông, nàng sẽ không chịu tin.

Cho nên nàng mới đi suốt ba ngày trời, mòn ba đôi dép cỏ, lại đứng chờ trọn một ngày ngoài phủ châu mới chặn được xe ngựa của Đô thứ sử.

Giờ đây, ngay cả ân sư mà Lương Dạ kính trọng nhất cũng đã nói như vậy, lẽ ra nàng nên dứt lòng rồi.

Thế nhưng nàng vẫn không tin.

Hải Triều ngẩng đầu lên, trong mắt như có bụi cát, khô khốc và rát bỏng: “Lương Dạ không phải người như vậy.”

Đô thứ sử thở dài: “Hai ngươi đã bao lâu không gặp? Tử Minh vào kinh cũng ba năm rồi nhỉ? Con người mà… đều sẽ thay đổi…”

Ông có vẻ không đành lòng, ngừng lại hồi lâu, mới nói tiếp: “Tử Minh không phải là người dành cho ngươi, tiểu cô nương à… nên buông bỏ đi thôi. Nếu có việc gì ta giúp được…”

Hải Triều lắc đầu, vẻ mặt trống rỗng.

Đô thứ sử buông rèm xe xuống, nói với phu xe: “Đi tiếp đi.”

Hải Triều đứng ngẩn ra giữa đường, đến khi bánh xe lăn lộc cộc mới giật mình tỉnh lại, vội vàng chạy theo: “Đô sứ quân—”

Xe ngựa dừng lại, lão nhân lại vén rèm lên, trên gương mặt đầy vẻ mệt mỏi: “Còn chuyện gì nữa?”

Hải Triều lấy từ trong vạt áo ra một gói vải, hai tay dâng lên: “Đây là số bạc được gửi cùng với thư từ hôn, ta đã cân rồi, tổng cộng mười bốn lượng bảy tiền, là tiền của hắn, khi sứ quân gặp lại hắn, làm ơn trả lại giúp.”

Đô thứ sử không nhận lấy: “Đây là số tiền Tử Minh bồi thường ba năm cơm áo cho ngươi, cũng coi như chút tấm lòng của hắn, ngươi hãy nhận lấy đi.”

Hải Triều cố chấp chìa tay ra: “Mấy viên ngọc vụn hắn trả lại, ta đã nhận. Nhưng số bạc này không thuộc về ta, ta không cần. Khi sứ quân gặp hắn, xin hãy trả lại.”

Đô thứ sử như không muốn dây dưa với nàng thêm nữa, phất tay ra hiệu cho gia nhân đến nhận lấy.

Bánh xe lại chuyển động, bụi đất cuốn lên phủ đầy mặt Hải Triều.

Lúc này Hải Triều mới phát hiện khi đuổi theo xe đã làm rơi mất một chiếc dép, nàng quay lại nhặt lên, thấy dây quai đã đứt, đây là đôi dép cuối cùng của nàng.

Nàng phủi lớp bụi và bùn khô trên đó, nhét dép vào bọc, bước thấp bước cao đi về.

Nàng không nhớ nổi mình đã về đến nhà bằng cách nào.

Cả một ngụm nước cũng chưa uống, cổ họng khô rát như bốc lửa chẳng buồn để tâm, chỉ ngồi ngây người trước cửa đến tận hoàng hôn.

Ráng chiều dần biến thành màu tím sẫm pha lam, gió từ biển thổi vào lạnh buốt.

Hải Triều đứng dậy đi vào nhà.

Nàng múc nước vào nồi lớn, nhóm lửa, đợi nước sôi, lấy một nắm hạt khoai ngọt đem hấp, sau đó ngồi trước bếp, lấy ra bức hưu thư mà Lương Dạ gửi nàng từ trong vạt áo.

Giấy là loại tốt, trắng tinh và dai mềm, mực là loại tốt, đen bóng như sơn, dưới ánh lửa ánh lên sắc đồng.

Loại giấy và mực này đến cả công tử nhà phú hộ trong thành cũng chưa chắc dùng nổi.

Lương Dạ đúng là đã phát đạt rồi.

Nàng mở thư ra, cẩn thận vuốt phẳng.

Một tờ giấy, mấy dòng chữ, câu nào cũng bốn hoặc sáu chữ, là kiểu “văn chương lừa chết Lý Lục” mà Lương Dạ từng nói.

Trước đây hắn chưa bao giờ viết thư kiểu đó, hắn biết nàng nhận được bao nhiêu mặt chữ, nên luôn viết bằng những chữ nàng quen, gặp chữ lạ còn vẽ thêm hình bên cạnh cho nàng hiểu.

Nhưng trong bức thư này, một nửa số chữ nàng chưa từng thấy. Dẫu vậy, mười sáu chữ cuối nàng vẫn nhận ra:

“Mỗi người một ngả, nghìn vạn biệt ly. Ba năm cơm áo, dâng tặng nhẹ nhàng.”

Nàng lặp đi lặp lại trong đầu mấy lần, rồi vo tròn tờ giấy, ném vào bếp lò.

Bước ra một bước đầu tiên, sau đó sẽ dễ hơn.

Nàng quyết không làm thì thôi, đã làm là dứt khoát, lôi từ dưới gầm giường ra một chiếc rương mây dài khoảng bốn thước, kéo đến trước bếp, mở nắp.

Nàng vốn là người thô vụng, phòng ốc lúc nào cũng bừa bộn chẳng có chỗ đặt chân, chỉ riêng chiếc rương mây này là ngăn nắp tươm tất, tất cả những gì liên quan đến Lương Dạ, nàng đều cất giữ kỹ lưỡng trong đó.

Giờ đây nàng móc ra từng món một, như thể đang mổ bụng một con vật mà nàng đã nuôi nấng cẩn thận, moi từng khúc ruột của nó ra.

Trước tiên là đám y phục và tất mới may trong nửa năm nay, đều là vải gai mịn hoặc vải chuối tốt, loại mà nàng tiếc chẳng nỡ dùng cho mình.

Lưỡi lửa nhanh chóng nuốt chửng tất cả.

Nàng có hơi xót của, tốn không ít vải và công sức, vốn định sửa lại cho vừa rồi mặc, nhưng thấy chướng mắt, thà bỏ còn hơn.

Những gì liên quan đến Lương Dạ, nàng không cần nữa.

Những bộ y phục cũ hắn để lại, lớn nhỏ đủ cả, mỗi món đều từng được vá chằng, giặt đến mềm nhũn bạc màu, gần như rách nát.

Những chữ lớn hắn luyện trên vải bố rách, những bài thơ hắn viết trên giấy thô bằng mây.

Con diều giấy, chong chóng, châu chấu bện bằng thân cỏ, đèn lồng làm từ nan tre mà hắn làm cho nàng khi còn nhỏ.

Những vỏ sò và ốc biển họ cùng nhau nhặt, những chiếc đầu cá khô hình thù kỳ quái.

Còn có vô số cây nến ngắn dài, là những mẩu nến sót lại bị vứt đi mà nàng lượm được khi làm thuê trong nhà phú hộ, rảnh rỗi thì nấu chảy ra, đổ thêm tim nến, chẳng khác gì nến mới.

Lương Dạ thường đọc sách ban đêm, dầu đèn khói nhiều cay mắt, chẳng đủ tiền mua nến, nàng mới nghĩ ra cách đó.

Giờ thì hắn đã giàu sang, chẳng còn lo chuyện không đủ nến nữa.

Hải Triều không ném nến vào bếp, mà châm từng cây một, đặt khắp nơi, soi sáng căn phòng rực rỡ. Dù sao cũng sẽ đốt hết, thì để bản thân hưởng trọn một lần cho đã.

Cuối cùng cũng đến lượt những bức thư.

Việc nhờ người mang thư không dễ, hắn vào kinh ba năm, tổng cộng chỉ gửi về hơn mười bức, mỗi bức nàng đều đọc đi đọc lại vô số lần, mở ra, vuốt phẳng rồi lại gấp vào, đến mức giấy cũng sờn mép.

Nàng ném từng bức một vào lò lửa.

Chỉ còn lại bức cuối cùng, nàng do dự một chút, vẫn mở ra xem.

Trong giấy gai kẹp một nhành mai khô, lúc còn trên cành hẳn là trắng muốt, nhưng khi đến tay nàng thì đã úa vàng.

Đó là bức thư Lương Dạ viết cho nàng khi vừa tới Trường An, chỉ vỏn vẹn mấy dòng, nàng có thể đọc ngược mà không sai một chữ, vậy mà vẫn cẩn thận đọc lại từng từ.

Rằm tháng Giêng, Dạ viết: Năm tháng trôi mau, lại thêm một tết Thượng Nguyên. Vào kinh đã hơn mười ngày, trăm việc rối ren, cho đến nay vẫn chưa ổn định. Tạm cư tại cảnh Vân Quán, phường Vụ Bổn, mọi sự bình yên, chỉ là đêm đến không nghe tiếng sóng, khó lòng yên giấc.

Đêm qua gió tuyết lớn, mãi tới hừng đông mới dứt. Sáng ra thấy mai trắng nở rộ trong sân, cảnh đẹp vô cùng, nghĩ rằng nàng chưa từng thấy loài hoa này, bèn bẻ một cành kèm theo thư gửi về.

Đêm nay là tiết hội, Kim Ngô không cấm, bạn học hẹn nhau đi ngắm đèn ở đại lộ Chu Tước, ta sợ lạnh, cũng chẳng có lòng dạo chơi, nên khéo léo từ chối. Đợi đến khi nàng tới, ắt sẽ cùng nhau dạo ngắm.

Kèm thư có ít bông và một đoạn vải tề, dùng để may áo mùa đông năm tới cho nàng. Xuân về vẫn còn lạnh, ngàn vạn lần chớ xuống biển. Giấy ngắn, không thể nói hết nỗi lòng, xin nàng giữ gìn.」

Cuối thư còn vẽ một cành mai. Nhành mai thật đã khô úa, nhưng nhành mai trong tranh vẫn như mới vừa nở.

Từ khi nhận được bức thư này, trong lòng Hải Triều đã gieo một giấc mộng mơ hồ.

Một ngày nào đó, nàng sẽ đến Trường An, cùng Lương Dạ ngắm đèn đêm Thượng Nguyên.

Hải Triều ném lá thư vào ngọn lửa, chẳng bao lâu, cành mai trên giấy cũng bị hun cho ngả vàng, rồi hóa thành tro đen.

Lúc ấy khoai ngọt trong nồi đã chín, tỏa ra mùi thơm nhẹ nhàng, nàng mới chợt nhớ bụng mình đang đói meo.

Nàng thổi nguội rồi xúc được mấy miếng, nhưng không thể ăn thêm nữa.

Lúc này đồ trong bếp lò đã cháy hết. Nàng cũng ném nốt số nến còn lại vào đó.

Nến nhanh chóng chảy thành sáp, cháy hết, ngọn lửa rụi xuống rồi lụi tắt. Giống như ngọn đèn đêm Thượng Nguyên ở Trường An, nàng từng mơ thấy vô số lần, nay cũng dần tắt lịm.

Trong nhà tối đen như mực.

Bóng tối như bức tường sập xuống, Hải Triều không thở nổi, lồng ngực nặng nề, âm ỉ đau, như thể có gì đó bên trong đang xé rách, muốn moi trái tim nàng ra.

Nàng không thể ở lại thêm một khắc nào, kéo đôi chân tê dại, lấy phần khoai ngọt còn lại trộn chút dấm cá, bọc lại bằng lá chuối, đẩy cửa bước ra ngoài, đi về phía bờ biển.

Trăng đã lên, ánh sáng lành lạnh rải khắp mặt biển.

Sóng nhẹ dập dờn, như biển cả đang khẽ ngáy ngủ.

Lúc này nơi bờ biển chẳng có mấy người, thuyền các nhà đều đã kéo lên bờ.

Gió biển ẩm ướt và lạnh lẽo tràn vào cơ thể nàng, vị mặn quen thuộc tràn ngập trong buồng phổi.

Nàng cảm giác như mình sống lại rồi.

Chẳng phải chỉ là đèn đêm Thượng Nguyên thôi sao? Không có Lương Dạ, nàng vẫn có thể đi.

Nàng có thể tự mình đến Trường An, ngắm mai ở Cảnh Vân Quán, ngắm đèn lồng trên đại lộ Chu Tước.

Từ Hợp Phố đến Trường An, tiền lộ phí chắc chắn không ít, nhưng nàng có thể từ từ dành dụm.

Nàng giỏi mò ngọc trai, giỏi chèo thuyền, không sợ cực khổ, lại có sức vóc, tích góp từng chút một, sẽ có ngày tích đủ.

Hải Triều nghĩ vậy, mang theo một chút cố chấp giận dỗi, cởi dây thừng buộc thuyền.

Ngay lúc ấy, phía sau vang lên một giọng nói khàn khàn: “Là Hải Triều đấy à?”

Hải Triều nhận ra đó là giọng của Sa bà, dừng tay quay lại gọi một tiếng “A bà”, rồi lôi gói lá chuối trong ngực ra đưa.

Sa bà nhận lấy gói bánh: “Sắp có bão lớn đấy.”

Hải Triều ngẩng đầu nhìn trời đêm quang đãng không gợn mây, cười cười: “Làm gì có gió.”

Sa bà mở gói ra ăn, vừa ăn vừa như lẩm bẩm: “Cẩn thận nhé, bão lớn sắp tới rồi…”

Bà lão này là người già cô độc trong làng, nghe nói hồi trẻ là thầy cúng ở đất Việt, biết xem thiên tượng, biết bói toán, chỉ tiếc chồng cùng hai con trai, một con gái đều chết trong gió bão ngoài biển.

Từ sau khi con gái út mất, bà trở nên lẩm cẩm, thường túm lấy người sắp ra khơi mà bảo sắp có bão, mười lần thì chín lần trật, còn một lần trúng thì cũng là mèo mù vớ cá rán, nhưng dân làng thương bà, nhà này cho bữa, nhà kia cho bữa, cứ thế nuôi bà sống qua mấy chục năm.

Không ai biết Sa bà rốt cuộc đã bao nhiêu tuổi.

Không ai để tâm đến lời một bà lão điên, nhưng chẳng hiểu vì sao, đêm nay, khi đôi mắt đục ngầu dưới mí mắt chùng chồng của bà nhìn về phía nàng, có một thứ gì đó khiến tim Hải Triều đập lỡ mất hai nhịp.

“Không sao đâu, nếu nổi gió thì con sẽ quay về.” Nàng nói.

Sa bà ậm ừ một tiếng: “Sao lại đi một mình? Tiểu Dạ không đi với con à?”

“Bà lại quên rồi à? Hắn ta đã vào kinh ba năm rồi mà.”

“Còn chưa về à?”

“Sẽ không về nữa đâu.”

“Sao lại không về?”

Mũi Hải Triều cay xè, nhưng nàng cố kìm lại, nhẹ nhàng nói: “Hắn thi đỗ tiến sĩ, làm quan rồi, sắp cưới tiểu thư nhà quyền quý, sẽ không trở về nữa đâu.”

“À?” Sa bà há hốc miệng, “Sao lại cưới người khác? Hắn không cưới con nữa à? Hai đứa tốt thế cơ mà, như một người vậy, dao chém không đứt, nước đổ không trôi…”

Sống mũi Hải Triều dâng lên cảm giác tê rát, nàng vội lảng đi: “A bà ăn khoai ngọt đi kẻo nó cứng mất.”

Sa bà gật đầu: “Ừ.”

Bà cúi đầu ăn một miếng, rồi lại ngẩng lên: “Mẹ con chôn rượu nữ nhi bên sông, đợi Tiểu Dạ về, nhớ gọi Tam thúc với mấy người nữa ra đào…”

“Đã nói là hắn không về nữa mà!” Hải Triều có phần bực dọc, “Hắn đã có người khác, đời này cũng không quay lại nữa!”

Ánh mắt Sa bà mông lung, trống rỗng, như thể chẳng hiểu nàng đang nói gì.

Hải Triều hối hận vì đã lớn tiếng, nói những lời này với một bà lão lẩm cẩm thì có ích gì chứ?

Nàng đưa tay vuốt lại mái tóc bạc phơ cho bà, khẽ nói: “Làm bà sợ rồi phải không? Ngoài trời lạnh, bà về nhà sớm đi, con đi đánh cá đây.”

Sa bà vẫn lẩm bẩm: “Con gái Đản gia xuất giá, rượu nữ nhi là không thể thiếu… Mẹ con ủ rượu ngon lắm, bao năm rồi chưa được uống lại…”

Hải Triều không nghe thêm nổi nữa, nhanh tay cởi dây thừng, đẩy thuyền xuống nước, nhảy lên thuyền, chống sào mấy cái, con thuyền nhỏ lao ra khơi xa.

Nàng loáng thoáng nghe thấy tiếng Sa bà theo gió bay trên mặt biển, không rõ ràng, chỉ lờ mờ: “Tiếc quá, tiếc quá…”

Một hơi chống gần một dặm, khi quay đầu lại thì không còn thấy bóng Sa bà đâu nữa, bờ biển rải đầy vỏ sò trắng xóa chỉ còn là một đường đen ngoằn ngoèo nơi chân trời.

Hải Triều lúc thì chống sào, lúc thì mặc sóng đẩy thuyền trôi.

Nơi đó là hồ ngọc gần nhất, sâu chừng mười trượng dưới mặt biển, đá ngầm chồng chất, như một tòa thành dưới lòng đại dương.

Nghe các bô lão trong làng kể, trong “thành” có nhiều con trai ngàn năm tuổi, nhưng tuyệt đối không thể động vào, bởi chỉ cần lại gần là sẽ dẫn dụ yêu quái giữ ngọc xuất hiện. Chỉ có những con trai tràn ra ngoài “thành” mới là dành cho người đi mò.

Truyền thuyết thật hay giả nàng không biết, nhưng từ khi nàng sinh ra đến nay, từng dám vào “thành” mò ngọc chỉ có hai người, chính là cha mẹ nàng và đúng là cả hai đều đã chết.

Khi đến Đoạn Vọng Địa, chân trời đã nhạt nhòa ánh sáng trắng.

Hải Triều dừng thuyền, nằm nghỉ một lát, sau đó đứng dậy xắn tay áo và ống quần, đeo giỏ trúc, cầm dao mò ngọc rồi xuống nước.

Nước biển sớm xuân vẫn lạnh căm căm, khoảnh khắc ngâm mình xuống, nàng không kìm được mà run lên.

Nhưng rất nhanh nàng đã thích nghi, như một con cá lanh lợi, lặn sâu xuống nước.

Dáng hình quái dị của “thành ngọc” hiện ra trước mắt, chập chờn trong làn nước, trông như một tòa thành ma bị người đời lãng quên.

Người trong làng ai cũng nói thân thủ và tài lặn nước của Hải Triều còn hơn cả mẹ nàng khi xưa, nhưng nàng chưa từng đến gần Đoạn Vọng Địa một lần nào.

Hôm nay cũng thế, nàng không định đến gần.

Thế nhưng khi lặn xuống, nàng lại nhìn vào trong “thành”, qua khe giữa các mỏm đá, trông thấy một luồng sáng.

Như ánh trăng, lại phủ thêm một tầng mờ ảo, giống đôi mắt ướt lệ của một thiếu nữ.

Hải Triều như bị mê hoặc, không thể rời mắt, vô thức bơi về phía ánh sáng ấy.

Ngay khoảnh khắc sắp vượt qua “cổng thành”, nàng bỗng giật mình tỉnh lại, phát hiện mình đã bơi quá xa, nếu tiến thêm chút nữa, lượng khí trong phổi sẽ không đủ để đưa nàng quay lại mặt nước.

Nàng xoay người, chân đạp lên mỏm đá trơn trượt, mượn lực đạp mạnh, bơi lên mặt nước.

Nàng nhịn thở đến mức lồng ngực đau nhói, cuối cùng cũng thấy được bóng đen của đáy thuyền.

Khi nàng phá nước trồi lên, bám được vào mạn thuyền và cố sức trèo lên thì bất chợt xung quanh tối sầm lại, mây đen che lấp ánh mặt trời.

Gió nổi rồi.

Hải Triều thầm thấy bất ổn.

Người sống bằng nghề biển đều biết loại “yêu phong” này, chẳng phải mùa bão tố mà tự dưng nổi gió chính là điềm báo biển “đòi mạng”.

Nàng chẳng kịp nghỉ, vội vã cầm lấy mái chèo gắng sức chèo, nhưng gió ngày một dữ, một đợt sóng lớn ập tới, con thuyền nhỏ như chiếc lá giữa lốc xoáy, bị hất lật ngửa.

Hải Triều văng xuống biển, may mà phản ứng kịp, tránh được thân thuyền úp trúng đầu.

Nhưng sóng biển chỉ trong thoáng chốc đã đẩy thuyền trôi xa.

Nàng chới với giữa những con sóng cao như núi, dần kiệt sức, đầu óc cũng trở nên mơ màng.

Tầm nhìn trước mắt nhòe đi, làn nước biển lạnh buốt và mặn chát dần trở nên ấm nóng.

Hải Triều bất chợt rùng mình tỉnh lại, phát hiện bản thân đã chìm xuống đáy nước, nước biển tràn vào mũi miệng.

Nàng vùng vẫy ngoi lên mặt nước, may thay sóng lại đánh lật thuyền thêm lần nữa, đẩy nó trôi trở lại gần nàng.

Nàng vội bám lấy mạn thuyền, dốc hết sức lực còn lại trèo lên, ngửa người nằm trên tấm ván, thở dốc từng ngụm từng ngụm không khí.

Nàng biết mình phải nghĩ cách rời khỏi vùng biển này, nhưng toàn thân đau nhức, mệt lả rã rời, đến cả ngón tay cũng không còn sức để động đậy.

Tiếng gió và sóng bên tai dần nhỏ lại, thuyền cũng không còn chao đảo dữ dội nữa, trong cơn mơ màng nàng dường như trông thấy trên mặt biển hình như đang nổi sương.

Hải Triều chưa từng thấy làn sương nào dày đặc đến vậy, một màu trắng xóa mênh mông, biển, trời, bờ cát… như thể cả thế giới đều tan chảy trong làn sương ấy.

Hơi sương ẩm ướt len lỏi vào mũi nàng, luồn sâu vào phổi.

Chính bản thân nàng cũng như sắp tan vào làn sương ấy, cảm giác đau nhức ở tứ chi dần tiêu tan, cả người mềm oặt ra, mí mắt trên dưới cứ thế khép lại.

Ngủ thiếp đi trên biển là chuyện nguy hiểm nhường nào, Hải Triều đương nhiên biết rõ, nhưng nàng không thể chống lại cơn buồn ngủ ngấm sâu đến tận xương tủy này.

***

Chương tiếp theo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *